Điểm trực tuyến
Lịch sử địa phương

CHUYỆN THƯ THỜI CHIẾN SÓC SƠN

Đăng lúc: Thứ hai - 23/12/2019 08:03 - Người đăng bài viết: admin
CHUYỆN THƯ THỜI CHIẾN SÓC SƠN

CHUYỆN THƯ THỜI CHIẾN SÓC SƠN

Thời Hùng Vương thứ sáu, sau khi dẹp xong giặc Ân, Thánh Gióng dừng chân ở núi Sóc, rồi cởi áo giáp treo lên cây, bay về trời. Truyền thuyết này để lại cho hậu thế bức thông điệp sáng ngời về ý chí quật cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt, đồng thời nêu tấm gương anh hùng trừ giặc cứu nước ngay từ tuổi nhỏ mà không tự phụ, không màng danh lợi.
CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
 
Ban Thường vụ Huyện ủy Sóc Sơn
 
SƯU TẦM VÀ BIÊN SOẠN
 
Đồng chí Nguyễn Nam Hà, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo-GĐ Trung tâm BDCT;
Đồng chí Nguyễn Xuân Phú, HUV, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Huyện uỷ;
Đồng chí Trương Ngọc Lan, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Huyện uỷ;
Đồng chí Ngô Bích Sen, Chủ tịch Hội Người cao tuổi huyện;
Đồng chí Đoàn Thị Hạnh, PGĐ Trung tâm VHTT và TT;
Đồng chí Nguyễn Thế Hùng, Chuyên viên Ban Tuyên giáo Huyện uỷ;
Đồng chí Bùi Thị Hạnh, Chuyên viên Ban Tuyên giáo Huyện uỷ;
Đồng chí Đỗ Thị Thu Nga, Chuyên viên Ban Tuyên giáo Huyện uỷ;
Đồng chí Trần Thị Phương Thảo, Chuyên viên Ban Tuyên giáo Huyện uỷ;
Đồng chí Ngô Ngọc Huân - TTVHTT&TT huyện;
Ông Ngô Văn Học, xã Quang Tiến;
Ông Trần Danh Bảng, xã Phù Lỗ;
Ông Trần Hợi, xã Chi Đông, Mê Linh;
Bà Nguyễn Thị Lý, Thị trấn Sóc Sơn;
Ông Lê Kim Sơn, xã Phù Lỗ;
Bà Ngô Minh Hằng, xã Đông Xuân.
 
 
 
 
 
 
 
THEO DẤU CHÂN PHÙ ĐỔNG
 
 
        Thời Hùng Vương thứ sáu, sau khi dẹp xong giặc Ân, Thánh Gióng dừng chân ở núi Sóc, rồi cởi áo giáp treo lên cây, bay về trời. Truyền thuyết này để lại cho hậu thế bức thông điệp sáng ngời về ý chí quật cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt, đồng thời nêu tấm gương anh hùng trừ giặc cứu nước ngay từ tuổi nhỏ mà không tự phụ, không màng danh lợi.
       Tưởng nhớ tới người anh hùng dân tộc có công dẹp giặc Ân, từ xa xưa nhân dân quanh vùng lập đền thờ Thánh Gióng ngay dưới chân núi Sóc (thôn Vệ Linh, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn - Hà Nội ngày nay). Đây là niềm vinh dự, tự hào của quân dân Sóc Sơn, mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, thấm đượm hồn thiêng Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên Vương.
       Theo dấu chân Phù Đổng, trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, gần 2 vạn người con ưu tú của huyện Sóc Sơn tình nguyện lên đường cầm súng chiến đấu. Trong đó, 3.168 liệt sỹ; 1.733 thương, bệnh binh, 22 gia đình có công với nước, 56 cán bộ tiền khởi nghĩa, 396 chiến sĩ bị địch bắt, tù đày... Chỉ tính riêng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân hai huyện Kim Anh, Đa Phúc (nay là Sóc Sơn - Hà Nội) đã đóng góp cho Nhà nước gần chục nghìn tấn lương thực, thực phẩm và tham gia hàng triệu ngày công phục vụ chiến đấu. Với những đóng góp về sức người, sức của và sự hy sinh to lớn vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, Đảng bộ và nhân dân huyện Sóc Sơn vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huyện Kim Anh và sau này là huyện Sóc Sơn cùng 18 xã trong huyện được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân”; 258 Bà mẹ được phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng” và 2 Anh hùng LLVTND, một Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, cùng hàng nghìn Huân, Huy chương, cờ thi đua, Bằng, Giấy khen về thành tích chiến đấu, phục vụ chiến đấu, công tác hậu phương quân đội của các tập thể, cá nhân.
          Đồng hành âm thầm cùng những chiến công chói lọi ấy, chính là “thông điệp tinh thần” - những lá thư, nhật ký thời chiến. Đó là nguồn động lực cực kỳ to lớn, cổ vũ người thân ở ngoài mặt trận và hậu phương quê nhà có thêm nghị lực để vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc.
          Mỗi lá thư là một câu chuyện với một khoảng trời riêng về một thân phận con người, một cuộc đời, một thế hệ. Những cánh thư ấy gắn kết tình cảm, kết nối thông tin giữa những con người trong “thời hoa lửa” với nhau, cho cả thế hệ hôm nay và mai sau “tiếp lửa truyền thống”, là nguồn sử liệu chân thực, sinh động nhất, là hơi thở của thời đại, là khúc ca tuyệt vời trong bản anh hùng ca giải phóng dân tộc - dựng nước và giữ nước.
            Nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống và tôn vinh, tri ân các Anh hùng, liệt sỹ, những người đã hiến dâng cả tuổi trẻ, cuộc sống vì độc lập, tự do của Tổ quốc; hướng tới kỷ niệm những ngày lễ lớn năm 2020, Ban Thường vụ Huyện ủy Sóc Sơn chỉ đạo xuất bản cuốn sách: “Chuyện thư thời chiến Sóc Sơn” và phát động phong trào “toàn dân tham gia viết sử”. Ngay sau phát động, đã có hàng trăm lá thư thời chiến, nhật ký chiến trường được các gia đình tìm kiếm, thu thập gửi về Ban biên soạn.
           “Chuyện thư thời chiến Sóc Sơn” là tác phẩm chính luận văn học, trao truyền cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau - những người không có ký ức về chiến tranh đang có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
           Hơn 40 bài viết của 30 tác giả, hầu hết là những người trong cuộc, đã khắc họa tương đối sinh động, làm nổi bật chủ đề tư tưởng: “Ký ức thời hoa lửa”; “Tri ân” và “Tiếp lửa truyền thống” trên bình diện của các thời kì chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ biên giới của Tổ quốc. Những nhân vật xuất hiện trong cuốn sách khá đa dạng: từ người nông dân, dân quân du kích, đến cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh; từ thương binh, liệt sỹ đến các chiến sĩ bị địch bắt, tù đày; từ chiến sĩ binh nhì đến vị chỉ huy cấp tướng đều là người con của quê hương Sóc Sơn anh hùng và huyền thoại. Họ có mặt ở khắp các chiến trường B,C,K, biên giới, hải đảo, thuộc các quân, binh chủng và ở ngay nơi quê nhà - một thời là hậu phương lớn.
       “Chuyện thư thời chiến Sóc Sơn” là cuốn sử thi đầu tay của huyện Sóc Sơn, cũng là cấp huyện đầu tiên trong cả nước xuất bản sách theo chủ đề “Những lá thư thời chiến Việt Nam” - một ấn phẩm sáng tạo, nổi tiếng của Nhà văn Đặng Vương Hưng trước đây.
       Do thời gian ngắn, việc sưu tầm, tổng hợp tư liệu chưa thật công phu, nên cuốn sách khó tránh khỏi sơ suất, thậm chí thiếu sót… Rất mong được bạn đọc chia sẻ, góp thêm ý kiến để những tập “Chuyện thư thời chiến Sóc Sơn” tiếp theo đạt chất lượng tốt hơn. /.
Ban biên soạn
 
 
 
 
 
 
 
 
CHUYỆN THỜI CHIẾN QUÊ HƯƠNG THÁNH GIÓNG VÀ KHÁT VỌNG HÒA BÌNH CỦA TUỔI TRẺ SÓC SƠN
 
Cuối tháng 10/2019, Cựu chiến binh, Nhà báo Ngô Văn Học đã chuyển cho tôi tập bản thảo “Chuyện thư thời chiến Sóc Sơn” do Ban Tuyên giáo Huyện ủy Sóc Sơn cùng nhóm tác giả sưu tầm và biên soạn. Có lẽ, tôi vinh dự là một trong những bạn đọc không phải người của vùng đất gắn liền với huyền thoại Thánh Gióng, nhưng lại được đọc bản thảo cuốn sách này sớm nhất!
Chả là trước đó, nhờ sự đam mê và chút duyên nghề nghiệp mang lại, tôi đã vinh dự được số phận chọn là người đại diện các Nhà văn cựu chiến binh của Việt Nam tổ chức cuộc vận động “Sưu tầm và xuất bản bộ sách “Những lá thư và Nhật ký thời chiến Việt Nam” từ năm 2004; đồng thời, cũng được bạn đọc cả nước tin yêu, coi là một trong những Nhà văn mặc áo lính chuyên về mảng tư liệu chiến tranh…
Tôi đã dành thời gian mấy đêm để đọc đi đọc lại bản thảo “Chuyện thư thời chiến Sóc Sơn” và đánh giá cao ý tưởng nhân văn và nội dung của cuốn sách này. Có lẽ, Sóc Sơn là đơn vị hành chính cấp Huyện - Thị - Quận đầu tiên trên cả nước đã sáng tạo ra cách làm mới: Tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân huyện nhà cùng làm sách về lịch sử, truyền thống và niềm tự hào của quê hương. Từ cụ già cho đến em nhỏ, từ cán bộ cho đến người dân, ai cũng có thể tham gia thể hiện theo cách của mình. Người có thành tích, kinh nghiệm, hiểu biết và sống nhiều thì kể chuyện. Người có khả năng viết thì giúp ghi chép lại thành tác phẩm. Các bạn trẻ là đoàn viên, thanh niên, học sinh, thậm chí là các cháu thiếu nhi có thể viết thư cảm nhận sau khi đọc cuốn sách này, tổ chức các buổi diễn văn nghệ và giao lưu với nhân chứng lịch sử trong sách, để “tiếp lửa truyền thống”. Những hoạt động như thế, đều hết sức ý nghĩa và nhân văn, góp phần bảo tồn và phát huy truyền thống lịch sử và văn hóa của quê hương huyền thoại Thánh Gióng.
Hơn 40 bài viết có trong cuốn sách này, được các nhà văn, nhà báo và những cây bút tâm huyết có uy tín và kinh nghiệm “Ghi theo lời kể” của những người con ưu tú nhất của vùng đất Sóc Sơn. Nhưng nếu chỉ đơn thuần là những bài báo, cung cấp thông tin, hình ảnh, thì đọc xong, biết rồi, người ta sẽ dễ quên. Theo tôi, nhiều bài viết trong cuốn sách này đã thầm đẫm tình người, tình đất Sóc Sơn, vượt ra ngoài khuôn khổ những bài báo thông thường. Nhiều bài viết đã có cốt chuyện, có đối thoại cùng nhau, nhân vật có số phận, có tính cách, và mang yếu tố điển hình. Nói cách khác, đọc những bài viết ấy thấy có không khí Văn học phi hư cấu và giàu chất sử thi.
Xét về lý luận thể loại, chúng ta cần biết Văn học đã xuất hiện từ rất lâu trước khi có báo chí. Thậm chí, trước khi có chữ viết, đã có “Văn học truyền miệng”. Có lẽ nhờ thế, mà chúng ta đã có tác phẩm Thánh Gióng tuyệt vời như ngày nay!  Văn học luôn lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm với phương thức chiếm lĩnh và biểu đạt đặc thù là hình tượng nghệ thuật. Còn Báo chí xuất hiện trong đời sống con người muộn hơn nhiều so với văn học. Nó nhận được sự trợ giúp rất nhiều của kỹ thuật: in ấn, hình ảnh, âm thanh… Chính vì thế mà ngày nay các phương tiện kỹ thuật số đã hỗ trợ tới mức ai cũng có thể làm báo được, khi bạn đăng tải thông tin, hình ảnh lên mạng xã hội...
Báo chí có nhiệm vụ thông tin kịp thời về cái mới, nhằm thoả mãn nhu cầu được hiểu biết của công chúng về những sự thật nóng hổi, sinh động mới xảy ra, được phản ánh một cách chính xác, cụ thể, tỷ mỉ, cặn kẽ. Những sự kiện, tình huống, hoàn cảnh tiêu biểu đó đang chuyển động, nảy sinh hàng ngày, hàng giờ, thậm chí là trực tiếp trong đời sống xã hội chúng ta đang sống. Nó phản ánh hiện thực đúng trong mọi trạng huống tồn tại có thực và luôn luôn chịu áp lực của yêu cầu thời sự. Còn Văn học phản ánh hiện thực thông qua những hình tượng nghệ thuật vừa phản ánh chân thực đời sống, đồng thời thông qua đó thể hiện thái độ thẩm mỹ của Nhà văn.
Như vậy, thông tin báo chí chủ yếu là thời sự và vấn đề đời sống xã hội, còn tác phẩm văn học thì chuyển tải cả cảm xúc, thẩm mỹ và tính hình tượng. Báo chí và Văn học nhiều khi có chung nhân vật phản ánh, nhưng kết quả về sự lan tỏa, hiệu ứng xã hội và sức sống lâu bền, chắc chắn sẽ không giống nhau và chúng luôn bổ sung cho nhau. “Chuyện thư thời chiến Sóc Sơn”  đã hội tụ được cả hai yếu tổ Báo chí và Văn học.
Những nhân vật kể chuyện được viết trong cuốn sách này, có thể là một Cựu chiến binh, một Cựu tù chính trị, Cựu cán bộ kháng chiến, hay chỉ là từ một công dân bình thường đến cán bộ cấp tỉnh, từ chiến sĩ binh nhì đến vị chỉ huy cấp Tướng...nhưng có chung một điểm là từng tham gia các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hay bảo vệ Biên giới. Họ có thể vừa là nhân vật, nhưng cũng vừa là tác giả. Họ là người thật, việc thật, có họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể và rõ ràng. Họ có thể đã hy sinh tại chiến trường, có người đã mất vì tuổi cao và sức yếu; nhưng con cháu, gia tộc, dòng họ vẫn luôn tự hào vì những gì họ đã cống hiến cho quê hương đất nước hôm nay.
Sẽ có bạn đọc thắc mắc: Tại sao lại chọn tên sách là “Chuyện thư thời chiến Sóc Sơn” mà đọc chỉ thấy “Thời chiến”, rất hiếm “Thư”? Theo tôi, “Thư thời chiến” ở đây chỉ là “cái cớ”, mang tính ẩn dụ, nhằm gợi mở cho người đọc tạo nên những câu chuyện xung quanh nó. Chẳng hạn, ngay lời mở đầu cuốn sách: “Sau khi dẹp xong giặc Ân, Thánh Gióng dừng chân ở núi Sóc, rồi cởi áo giáp treo lên cây, bay về trời. Truyền thuyết này  để lại cho hậu thế  “bức thông điệp” sáng ngời về ý chí quật cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt đồng thời nêu tấm gương anh hùng trừ giặc cứu nước ngay từ tuổi nhỏ mà không tự phụ, màng danh lợi”. Có lẽ, đây cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mang âm hưởng ‘theo dấu chân Phù Đổng” của tác phẩm “CHUYỆN THƯ THỜI CHIẾN SÓC SƠN”.
Điều quan trọng là hôm nay và mai sau đang chờ đợi: Những lá thư của bạn đọc cả nước, đặc biệt là thư của thế hệ trẻ, đoàn viên, thanh niên học sinh… Sóc Sơn viết về cuốn sách này. Họ có thể gửi qua bưu điện, gửi trực tiếp qua Chi đoàn, Nhà trường. Và dĩ nhiên là có thể gửi cả qua email và mạng xã hội. Nhân đây, tôi đề nghị lập một fanpaghe “CHUYỆN THƯ THỜI CHIẾN SÓC SƠN” trên mạng xã hội, để đăng tải các bài viết có trong cuốn sách và những bài viết tiếp sau, cùng chủ đề “Lịch sử-Truyền thống Sóc Sơn anh hùng và huyền thoại”.
Thật hiếm có vùng đất nào lại hội nhiều yếu tố điển hình về “địa linh nhân kiệt” như Sóc Sơn: Không chỉ là quê hương của Thánh Gióng-một trong vị “Thánh tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam; mà còn có Núi Đôi, và những dòng sông huyền thoại như Cà Lồ, hay sông Cầu và cả sân bay Quốc tế Nội Bài! Bởi thế, có thể coi “CHUYỆN THƯ THỜI CHIẾN SÓC SƠN” không chỉ là Di sản của ông cha để lại, mà còn là Tài sản tinh thần vô giá, góp thêm và làm giàu cho Văn hiến Sóc Sơn./.
Nhà văn Đặng Vương Hưng
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
NƠI HẦM TỐI LÀ NƠI SÁNG NHẤT
      QUA HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN TRƯỜNG KỲ CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC ĐÃ CÓ HÀNG VẠN NGƯỜI CON ƯU TÚ CỦA HUYỆN SÓC SƠN THAM GIA HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG, TRỰC TIẾP CẦM SÚNG CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ TỔ QUỐC. 396 CHIẾN SĨ ĐÃ BỊ ĐỊCH BẮT, TÙ ĐÀY VỚI NHỮNG ĐÒN TRA TẤN CỰC KỲ DÃ MAN. NHIỀU NGƯỜI BỊ THƯƠNG TẬT, TÀN PHẾ, KHÔNG ÍT ĐỒNG CHÍ ĐÃ ANH DŨNG HY SINH. NHƯNG CÁC CHIẾN SĨ CÁCH MẠNG BỊ GIAM TRONG ĐỊA NGỤC CỦA ĐẾ QUỐC VẪN KIÊN TRUNG BẤT KHUẤT, GIỮ TRỌN KHÍ TIẾT CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN, GIỮ VỮNG Ý CHÍ NGOAN CƯỜNG CỦA NGƯỜI CHIẾN SĨ CÁCH MẠNG VỚI NIỀM TIN SON SẮT VÀO THẮNG LỢI CUỐI CÙNG           
         “Nơi hầm tối là nơi sáng nhất” là một số bài viết, giới thiệu những tấm gương tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, ý chí chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ cách mạng người Sóc Sơn, đã từng bị giam cầm ở các nhà tù: Phúc Yên, Nhà Tiền, Gia Lâm, Playcu, Hố Nai (Biên Hòa), Phú Quốc... là những câu chuyện sinh động về cuộc đấu tranh đầy cam go khốc liệt trong gông cùm, dưới lưỡi lê, báng súng tàn ác của kẻ thù. Nhiều đồng chí đã kiên cường sống, chiến đấu với bọn bạo chúa dã man và tổ chức vượt ngục thành công để trở về với dân, với Đảng...
 HAI LẦN… CHẾT
(Ghi theo lời kể của ông Trần Văn Điềm-
cán bộ tiền khởi nghĩa xã Nam Sơn)
 
Mỗi cuộc đời con người chỉ có một lần chết, nhưng đối với tôi đã hai lần…chết mà vẫn sống thêm gần 70 năm, đến nay (2019) đã ngoài 90 tuổi vẫn khỏe mạnh, minh mẫn
Tôi còn nhớ vào ngày 02/11/1951, khi đó tôi đang là Huyện ủy viên, Bí thư Chi bộ xã Việt Tiến, huyện Đa Phúc (nay là Đức Hòa, Xuân Thu, Kim Lũ, Sóc Sơn - Hà Nội). Là chính trị viên xã đội, trực tiếp chỉ đạo du kích chiến đấu chống càn, bị thương vỡ xương hông, đạn xuyên lồng ngực, gần tim. Trong lúc mê man, bất tỉnh, tôi bị giặc Pháp bắt đem đi. Các đồng chí của ta tưởng tôi hy sinh, mất xác, nên sau này huyện đã tổ chức lễ truy điệu. Mấy tháng sau, khi biết tin, gia đình tôi lại tổ chức lễ “phục hồn nhập mộ”, thế là tôi lại phải chết… lần thứ hai. Ông thầy cúng (chủ lễ) vào loại “cao tay” nhất vùng, quả quyết:
- Thầy phải vất vả lắm, đủ mọi cách, nhờ trời Phật, thần linh, mới đưa được anh Điềm siêu thoát, lên cõi tiên,…
Một số người có mặt lúc đó rối rít: “Đa tạ thầy!”.
Sự thật, địch đưa tôi về giam ở Nhà Tiền, rồi đưa sang giam ở Gia Lâm -Hà Nội. Tôi được giao nhiệm vụ làm Bí thư Chi bộ trại giam Gia Lâm. Chi bộ có 19 đồng chí lãnh đạo hơn 800 người tù, tôi cùng hai đồng chí, được tổ chức cho vượt ngục thành công. Tháng 02/1952, tôi trở về được bố trí làm Phó Ban Đảng vụ Huyện ủy Đa Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Phó Ban Tổ chức Huyện ủy).
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình cố nông, quê gốc thôn Tây Lạc, xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Năm 1939, mới 11 tuổi, tôi theo bố mẹ lên sinh sống tại làng Xuân Bảng (xã Nam Sơn, Sóc Sơn - Hà Nội). Lúc đó gia đình tôi không có một “tấc đất cắm dùi”, chủ yếu là đất lãnh canh của chủ đồn điền. Cuộc sống của bố mẹ tôi lam lũ, cơ cực, cày thuê, cuốc mướn, “thắt lưng, buộc bụng”, nên phải gửi tôi cho một người họ hàng ở thị trấn Đông Anh nuôi nấng, ăn học. Quá khổ, thiếu thốn trăm bề nên tôi chỉ học đến sơ học yếu lược (bán tiểu học) thì phải bỏ học giữa chừng, về quê làm tá điền kiếm sống. Tháng 3/1945, ở tuổi 17, tôi được giác ngộ cách mạng, tích cực, xông xáo công tác, lại có chút chữ nghĩa, nên được phân công phụ trách thanh, thiếu niên cứu quốc của xã Nam Sơn. Tháng 5/1948, tôi được kết nạp vào Đảng.
Khi bị địch bắt, tôi là Huyện ủy viên, thoát khỏi lao tù tiếp tục công tác. Tháng 2/1956, lúc này tôi là Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, được điều động đi làm đội cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức đợt 5 (đợt cuối cùng) ở xã Phong Cốc, huyện Yên Hưng, khu Hồng Quảng (nay là tỉnh Quảng Ninh), tuy thời gian chỉ có 6 tháng (tháng 02 đến tháng 8/1956) nhưng gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, chẳng hạn như: theo cách làm ở các địa phương khác, phải xác định có 5% số hộ trong thôn là địa chủ, nhưng ở thôn Đồng (thôn tôi phụ trách), không có địa chủ mà chỉ có 2 gia đình phú nông. Tôi đã đi sâu, đi sát quần chúng nhân dân, được bà con phản ánh: Trong thôn không có gia đình nào phát canh, thu tô. Không ai thuê nhân công, cày, bừa, gặt, cấy,… chỉ có bà con họ hàng đổi công làm cho nhau.
Dù không đạt chỉ tiêu về xác định thành phần, nhưng tôi vẫn trung thực báo cáo lên cấp trên. Tôi xác định, vấn đề cơ bản nhất là “người cày có ruộng”, nhờ vậy, bà con nông dân phấn khởi nói: “Có đội[1] về chúng tôi mở mày, mở mặt. Đội về, chúng tôi được ngẩng đầu lên, được ăn, được nói!”.
Do thiếu kinh nghiệm thực tế về ruộng đất dẫn đến việc lúc đầu, tôi chia ruộng không công bằng. Các gia đình bần cố nông được chia các đợt trước đều là ruộng tốt, màu mỡ (ruộng đất “quả thực”[2] của các thôn khác san sẻ cho thôn Đồng). Về sau vẫn là các gia đình bần cố nông, nhưng được chia chỉ còn ruộng đất bạc màu, cằn cỗi, phần tiêu chuẩn ruộng đất được chia cũng ít hơn. Đây đó xuất hiện phản ứng của bà con:
  • Chúng tôi không nhận ruộng đất xấu!
  • Phải cấp đủ ruộng đất tiêu chuẩn cho chúng tôi như các gia đình được chia các lần trước!
Ở thế bí, tôi định chia lại ruộng đất theo hình thức “gắp thăm”, nhưng về sau anh em trong đội tích cực tuyên truyền vận động bà con, cuối cùng mọi người đều nhất trí cách làm, cùng nhau san sẻ. Ai cũng có ruộng đất tốt, ai cũng có ruộng đất xấu, tiêu chuẩn như nhau.
Đi làm đội cải cách ruộng đất, hoàn thành vào loại khá, tôi được tặng giấy khen của Đoàn ủy cải cách ruộng đất khu Hồng Quảng do có thành tích “Xây dựng phong trào đoàn kết toàn dân, tăng gia sản xuất tốt”.
Kết thúc đợt biệt phái, trở lại quê hương tỉnh Vĩnh Phúc, tôi được giao công tác Chủ nhiệm Quốc doanh Điện ảnh của tỉnh, rồi được đề bạt làm Bí thư Đảng ủy, Phó Trưởng ty Thường trực, Ty Văn hóa tỉnh (nay là cấp sở). Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trên cương vị công tác mới, cấp trên cho tôi đi học bổ túc công nông (năm 3 lớp). Tốt nghiệp lớp 10/10, được đi học Đại học Văn hóa 4 năm (1963 - 1966), ra trường về làm Bí thư thị xã Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1968, tôi được đồng chí Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy giao nhiệm vụ làm Trưởng đoàn củng cố hợp tác xã nông nghiệp. Đoàn có 20 đồng chí, là cán bộ các ban, ngành, các ty ở tỉnh, trực tiếp về công tác tại các xã: Phú Cường, Minh Phú (huyện Kim Anh) và xã Tân Hưng (huyện Đa Phúc). Trước khi đi, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc căn dặn, nhấn mạnh:
  • Các cậu hướng dẫn cho hợp tác xã khoán trồng màu, vụ đầu tiên cho họ hưởng tất cả sản phẩm: ngô, khoai lang, khoai tây,… vụ sau hưởng tỷ lệ từ 40 - 60%, cao nhất là 70% để động viên bà con phấn khởi.
Tôi mạnh dạn:
  • Như ý kiến của anh, không cho bà con xã viên được hưởng thỏa đáng, thì họ không làm, nếu không, họ sẽ “khoán chui”.
Đồng chí Bí thư Kim Ngọc nhắc lại lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh” và nhấn mạnh: Đầu tiên khoán màu, sau đó sẽ mở rộng khoán lúa...
Nửa thế kỷ trôi qua, hôm nay khi kể lại chuyện này, tôi càng nhớ nhiều về đồng chí Kim Ngọc, một đồng chí lãnh đạo có nhãn quan chiến lược, có tầm nhìn xa, trông rộng, vì nhân dân cống hiến vô điều kiện. Có lần anh tâm sự với tôi: “Mình không mong muốn gì hơn bằng làm cho đời sống nhân dân khá lên”.
Sau 45 năm công tác (1945 - 1990), tôi được nghỉ hưu, nay nhận huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và là cán bộ tiền khởi nghĩa, được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba.
                                                             
                                                       Thanh Chương (ghi)
                                           (Bài viết trong tập Hồi ký: Kiên Trung Bất khuất
                                            do Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội xuất bản)
CHÚNG TA LÀ ĐẢNG VIÊN
(Viết về  bà Trần Thị Luyến, xã Quang Tiến)
 
             Một buổi sáng đầu tháng 8/1954, tù nhân ở trại giam Nhà Tiền - Hà Nội chộn rộn hẳn lên khi được thông báo: Mang hết đồ đạc cá nhân để di chuyển. Nhiều phán đoán cho rằng, có khả năng bọn Tây đưa anh chị em, bà con ta đổ xuống biển. Cũng có thể địch đưa đi thủ tiêu tập thể.
             Chỉ đến lúc chúng tôi ra đến phòng lớn, cách nhà tù không xa, con đầm giám thị lông tay, lông chân màu bàng bạc như lông con trâu trắng, chỉ tay ra cổng nói:
             - Phi ni tú (thả ra hết)!
             Lúc đó có mấy người lính da đen, từng bị ta bắt làm tù binh, được phóng thích, nhân cơ hội lộn xộn, nơi đông người, họ đến vừa giơ tay ra hiệu, vừa nói nhỏ với chị em chúng tôi, bập bẹ tiếng Việt lơ lớ:
             - Việt Minh tốt lắm! Giơnevơ! (ý nói Hiệp định Giơnevơ đã được ký, các chị được về nhà, Việt Minh tốt lắm!).
    Quá mừng, tôi nói với Phù Thị Tự - cô nữ đoàn viên thanh niên cứu quốc người cùng xã, cùng bị bắt với tôi ở cổng làng Điền Xá:
             - Hiệp định Giơnevơ đã ký, chúng ta được thả tự do.
             Phù Thị Tự nói như reo lên:
             - Ôi! Thật thế hả chị?
             Khoảng một giờ sau, chị em chúng tôi hòa chung vào dòng người trên đường phố Hà Nội. Lòng tôi xao xuyến, trào dâng niềm thương nhớ, nghĩ đến người chồng thân yêu - anh Lê Quốc Lộc, Thường trực Đảng ủy, kiêm Thư ký Ủy ban kháng chiến xã Bộ Lĩnh, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc (nay là xã Quang Tiến, Hiền Ninh, Sóc Sơn, Hà Nội). Anh Lộc bị địch bắt tháng 3/1954, sau khi tôi sa vào tay giặc khoảng một tháng. Vợ chồng tôi người cùng xã, tôi quê làng Bắc Hạ, anh Lộc ở Quảng Hội, chúng tôi đi kháng chiến, yêu thương rồi lấy nhau. Trước ngày cưới tôi đã giao hẹn:
       - Em lấy chồng, nhưng vẫn tiếp tục công tác.
       Anh Lộc vui vẻ, nắm chặt tay tôi, gật đầu:
       - Chúng ta là đảng viên! Phải như thế em ạ!
       Ra tù, tôi về Quảng Hội quê chồng, nhà cửa, đồ đạc... đã bị địch đốt sạch, phá sạch. Thời gian sau, anh Lộc từ lao tù Phú Quốc cũng được trao trả trở về, vợ chồng tôi vẫn phải ở tạm bên nhà bác ruột, về sau ở nhờ nhà anh rể, chị họ. Hơn một năm sau, tháng 9/1955 vợ chồng tôi mới được chia một ngôi nhà nhỏ tuềnh toàng, nguyên là nhà kho của địa chủ bỏ hoang. Năm sau, tôi sinh cháu Sơn (con trai đầu lòng). Lúc này, kinh tế gia đình eo hẹp nhưng vợ chồng tôi vẫn động viên nhau công tác. Bản thân tôi sau khi ra tù, về địa phương được giao ngay chức vụ Chủ tịch Hội Phụ nữ cứu quốc xã Bộ Lĩnh như trước khi bị địch bắt.
Đến năm 1966, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn cam go, ác liệt. Anh Lộc đang làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã, được điều động lên công tác ở Viện Kiểm sát huyện Kim Anh. Tôi đang là Chủ tịch Hội Phụ nữ, được tín nhiệm, đề bạt làm Chủ tịch xã, thay chồng. Trước đó, từ năm 1957, tôi được bầu làm Ủy viên Hội thẩm Tòa án huyện Kim Anh. Công tác bận rộn, hơn nữa, xã chúng tôi lại ở kề sát sân bay quân sự Đa Phúc (nay là sân bay quốc tế Nội Bài) nên thường xuyên bị máy bay địch bắn phá ác liệt. Chồng công tác ở huyện, sơ tán xa nhà, một nách bốn con nhỏ, cháu lớn mới 15 tuổi, cháu út mới lên ba. Vì chiến tranh nên tôi đi công tác suốt ngày đêm, bốn anh em cháu phải tự chăm sóc lẫn nhau, từ việc học hành, ăn uống, đến việc đưa nhau xuống hầm trú ẩn khi máy bay Mỹ oanh tạc. Thương và lo cho các con còn nhỏ, nên có lần sau khi kết thúc cuộc họp Đảng ủy, đêm khuya, trời mưa gió, cánh nam giới tìm chỗ nghỉ ngơi gần nơi làm việc, tôi vẫn quyết về nhà với các con. Khi qua chiến hào đầu làng Xuân Bách, miếng ván làm cầu, ai đó đã lấy mất. Tôi là phụ nữ người nhỏ bé, sức yếu, không thể bê xe đạp, nhảy qua hào như đàn ông, nên đành đẩy mạnh chiếc xe đạp lao xuống giao thông hào ngập nước để làm chỗ vịn nhảy qua bên kia. Bờ hào mưa ướt, trơn nhầy, tôi phải bò lên mặt đường, cầm bánh trước kéo xe đạp lên. Có hôm tôi lên huyện họp, tại làng Gia Trung, xã Quang Minh (nay là thị trấn Quang Minh), nơi huyện sơ tán, tan họp thì trời tối, đường xa nhưng nghĩ tới các con, nên tôi mải miết, guồng xe đạp về nhà. Đến rìa sân bay Nội Bài, giữa “đồng không, mông quạnh”, tôi gặp một người đàn ông, đạp xe ngược chiều. Tôi giật mình trong sự sợ hãi, và theo bản năng, tôi buột miệng:
             - Ai!
Người đàn ông đó im lặng đạp xe vụt qua, tôi cắm đầu guồng xe nhanh hơn, đi được một quãng, theo linh cảm, tôi vội ngoái cổ lại nhìn. Gã đàn ông kia quay xe lại đang đuổi theo tôi, không còn giải pháp nào hơn, tôi nghiến răng đạp xe thục mạng, trong óc thoáng nghĩ “bà mày sẽ chạy vào Ấp Cút”. Rất may,  đến ngã ba Quảng Hội, tôi gặp chiếc ô tô tải hỏng máy, có mấy người đang lúi húi sửa chữa. Gã kia quay xe bỏ chạy, lúc này, tôi mới thở hổn hển, mệt đứt hơi, lảo đảo xuống xe, dắt bộ.
Xã Quang Tiến khi tôi đang làm Chủ tịch Ủy ban hành chính (1966 - 1974) có 558 hộ dân, hơn 1.500 mẫu ruộng, vùng đồi gò, ruộng đất bạc màu. Khi còn làm ăn cá thể, nhiều người vẫn bảo “lúa xấu như cỏ may, chó chạy hở đuôi”. Nhưng sau này, thời đánh Mỹ, đa số nam nữ thanh niên đã đi bộ đội, thanh niên xung phong thoát ly công tác, các cánh đồng lúa của hợp tác xã vẫn tốt bời bời, năng suất cao vọt. Để lúa xanh tốt, thóc bội thu thì các đồng chí trong Đảng ủy, Ủy ban xã và tôi theo định kỳ, mỗi tháng 2 lần, mỗi lần vài ba ngày, mang theo gạo của nhà, cộng với ít tiền mua thức ăn cùng các đồng chí lãnh đạo xã Mai Đình (liền kề bên cạnh) đi thăm, kiểm tra đồng ruộng, để chỉ đạo bà con xã viên hai xã kịp thời sản xuất theo đúng thời vụ, kỹ thuật. Đoàn chúng tôi mang theo cuốc, xẻng, khi cần thì đắp bờ hoặc tháo nước ở ruộng, mọi người làm việc vui vẻ, hăng hái, xem ruộng hợp tác xã như là ruộng nhà mình.
Tôi xuất thân là con thầy đồ dạy chữ Hán, ông nội, bác ruột cũng sống với nghề “gõ đầu trẻ”.  Bố tôi dạy học trò theo kiểu ngày xưa “Thương cho roi cho vọt”, tôi sợ bị đánh nên không dám học. Đi hoạt động, tham gia kháng chiến, nhờ lớp bình dân học vụ, tôi mới biết đọc, biết viết, làm toán, cộng, trừ, nhân, chia. Ở cương vị Chủ tịch xã, tôi được đi học kỹ thuật trồng trọt 1 tháng để có kiến thức chỉ đạo công tác nông nghiệp địa phương. Dù công việc bề bộn, nhưng tôi vẫn cố gắng sắp xếp việc nhà ổn định, có hơn 1 sào “đất rau xanh”,  tôi ứng dụng kỹ thuật đã được học, trồng khoai tây, bí đỏ, bí đao... trồng thưa, “bấm ánh” (bẻ mầm), chỉ để lại một thân cây, nên quả to, đến khi thu hoạch, mỗi quả nặng 4 - 5kg là việc bình thường. Lương thực khó khăn, nhờ có hơn “sào đất rau xanh”, mùa nào thức nấy, quanh năm trồng rau màu, chăn nuôi lợn, có lợn bán nghĩa vụ, thực hiện đủ theo tiêu chuẩn 30 kg lợn hơi và 3 kg gà/hộ/năm như mọi nhà khác.
Đất nước đang trong giai đoạn chiến tranh ác liệt, nhưng xã Quang Tiến chúng tôi vẫn đảm bảo 100% chỉ tiêu quân số nhập ngũ. Có quân nhân bỏ ngũ, đảo ngũ, chúng tôi đến tận nhà động viên, thuyết phục “đả thông tư tưởng, quán triệt tinh thần”, anh em vui vẻ trở lại đơn vị, được Ủy ban xã cấp giấy đi đường.  “Thực túc, binh cường”, dù khó khăn đến mấy, chúng tôi vẫn lãnh đạo nhân dân, vượt lên bom đạn của địch, tích cực tăng gia, sản xuất, để có “hạt gạo cắn đôi, cắn ba”, phần để lại hậu phương, phần đưa đi chiến trường. Xã tôi từ cán bộ đến người dân đều quyết tâm thực hiện bằng được tiêu chí “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Tôi còn nhớ rõ, xã Quang Tiến chúng tôi, mỗi năm nộp thuế, thóc nghĩa vụ, thóc bán theo giá khuyến khích cho nhà nước, tổng cộng hơn 500 tấn. Thực phẩm lợn, gà nghĩa vụ, giao nộp hàng năm trên 30 tấn. Xã chúng tôi thời đó luôn được xếp vào loại khá của huyện.
Ở vị trí là Chủ tịch xã, 3 năm (1965, 1966, 1968) tôi được bầu là “Chiến sĩ thi đua” của tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng chí Phạm Văn Vui, Chủ tịch huyện bảo tôi:
- Hoàn cảnh gia đình khó khăn như thế mà cô phấn đấu trong công tác, làm được cho tập thể như vậy là khá. Có người hoàn cảnh thuận lợi hơn nhiều, nhưng giao nhiệm vụ không hoàn thành.
Có những đồng chí, cùng lăn lộn hoạt động, công tác với tôi từ thời kháng chiến chống Pháp, như anh Nguyễn Xuân Đẩu, khi đó là Huyện ủy viên, Trưởng Công an huyện, gặp tôi lần thứ 2 đi dự Đại hội “Chiến sĩ thi đua” ở tỉnh về (năm 1966), anh hồ hởi:
- Chị thông minh, xông xáo, nói được, làm được, đặc biệt chị sống trung thực, luôn tôn trọng, bảo vệ lẽ phải. Anh chị em chúng tôi phải học tập chị nhiều!
Tuy vậy, trong công tác, không phải lúc nào cũng thuận lợi, nhiều việc khiến cho tôi phải trăn trở. Như trường hợp cháu Tạ Văn Hữu, con gia đình cơ sở kháng chiến, có 3 anh ruột đi bộ đội vào miền Nam chiến đấu đánh Mỹ. Tôi đề nghị Thường vụ Đảng ủy xã cho cháu sang Liên Xô học ở trường dạy nghề, được Thường vụ nhất trí. Lần khác xét, tuyển chọn học sinh để sang Cộng hòa dân chủ Đức học trung cấp kỹ thuật, tiêu chuẩn là con liệt sĩ, nhưng phải có bằng tốt nghiệp phổ thông. Cả xã Quang Tiến lúc đó không có cháu nào đủ tiêu chuẩn. Tôi linh hoạt đề nghị cho cháu Trần Đức Hùng, bố là đảng viên, thương binh, bản thân Hùng đạo đức tư cách tốt, có bằng tốt nghiệp phổ thông. Đề nghị của tôi được lãnh đạo xã, huyện chấp nhận, vậy mà có nhiều tiếng xì xào, phản ứng:
  • Phải là thế nào, “cửa trước, cửa sau gì đó”, mới được bà Chủ tịch xã cho đi học nước ngoài?
  • Chắc là họ hàng thân thiết, phi nội thì cũng là bên ngoại của bà Chủ tịch xã!
Tôi chỉ buồn nhưng không bực bội. Sau đó tôi ôn tồn, nhã nhặn giải thích, nói cho một số người phát ngôn thiếu chính xác này hiểu sự thật. Cách làm của tôi được tập thể ủng hộ, mọi việc được giải quyết ổn thỏa, khi hiểu ra vấn đề, bà con lại càng thương quý tôi hơn.
Đến nay, ở cái tuổi 85, đã được tặng huy hiệu 65 tuổi Đảng, sống yên vui với con, cháu, chắt nội, ngoại. Sức khỏe tuy giảm sút nhưng đầu óc vẫn còn minh mẫn. Với 32 năm công tác (từ năm 1947 đến năm 1979) có 14 năm là Ủy viên Thường vụ Đảng ủy xã, bất kể ở vị trí công tác nào tôi đều nhiệt tình, làm tròn nhiệm vụ của người đảng viên.
                                                                  
                                                                           Thành Vinh (ghi)                                                                                                                                          
                                                  (Bài viết trong tập Hồi ký: Kiên Trung Bất khuất
                                            do Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội xuất bản)
 
NIỀM MƠ ƯỚC LỚN
(Viết về ông Cù Xuân Bổng, xã Nam Sơn,
Trưởng BLL chiến sĩ bị bắt, tù đày huyện Sóc Sơn)
Đã ba hôm nay, phân khu D4, ngày hai buổi sáng, chiều ra sân ngồi phơi nắng đấu tranh quyết liệt chống không đi tạp dịch, phục vụ mục đích quân sự. Cụ thể là kiên quyết không cắt cử người kéo cột lại chòi gác của phân khu bị vẹo nghiêng, sau đợt mưa bão đầu mùa.
Sáng nay là buổi sáng thứ năm, anh em tử tù ngồi tại chỗ đấu tranh không chịu giải tán, dù điểm danh xong. Tên thiếu úy Hách, giám thị - thị trưởng khu 4 giọng ngọt xớt vừa hăm dọa, vừa ra vẻ “kể cả”:
        - Tôi nói hết lý, hết tình rồi, các anh nên giải tán về sinh hoạt bình thường, có gì đâu? Gần ngàn người ở phân khu ta, cử hai chục người ra cột dây cáp vào pháo đài (tức chòi canh) kéo giúp một tý là xong, đóng cọc sắt, cột chặt là hết việc. Có nặng nhọc gì cho cam? Các anh không muốn êm đẹp, cố tình chống đối không đi tạp dịch thì Bộ Chỉ huy sẽ sử dụng vũ lực và biện pháp mạnh.
Vân - một đảng viên trẻ, dáng người mảnh dẻ đứng dậy, đại diện cho anh em phát biểu dõng dạc:
           - Chúng tôi không bao giờ tiếp tay cho đối phương sửa chữa, xây dựng các công trình quân sự. Vì các công trình của đối phương được xây dựng mục đích nhằm chỉ để chống lại đồng chí, đồng đội, đồng bào của chúng tôi, kìm kẹp bản thân chúng tôi.
Tên thiếu úy Hách bỗng nhiên lồng lộn, giọng hắn hằn học:
           - Đây là lần chót tôi yêu cầu các anh về phòng sinh hoạt bình thường, rồi tiếp tục đi tạp dịch. Các anh bất tuân kỷ luật thì tại sân nhà tù này, nơi các anh đang ngồi, xác các anh sẽ phải nằm la liệt như cá mòi trong hộp!
Nói rồi, tên thiếu úy Hách, tên trung sỹ Điềm, giám thị phân khu vội vàng ra khỏi khu giam, chúng khóa cửa ra vào bằng xích sắt lớn với hai ổ khóa to xù.
Chi ủy viên Dương Công Hai, người chỉ đạo trực tiếp của Phó Bí thư chi đoàn Cù Xuân Bổng, khẽ mỉm cười. Bổng gật đầu, hai anh em ngồi bên nhau vững vàng, ấm cúng. Nội dung đấu tranh trực diện với địch, các yêu sách, Hai đã trao đổi với Bổng. Đúng như chỉ thị của Đảng ủy, chi ủy giao nhiệm vụ. Cù Xuân Bổng kiên nhẫn chờ thời cơ: “Đánh đúng đối tượng”. Theo sự phân công, anh sẽ đấu tranh trực tiếp với tụi sỹ quan, đại diện Bộ Chỉ huy nhà tù. Nắng như đổ lửa, mồ hôi ai nấy ướt đẫm, nhưng trong bầu không khí căng thẳng, Cù Xuân Bổng, Dương Công Hai và mọi người hình như không còn để ý đến thời tiết khắc nghiệt, tất cả ở trong tư thế đối phó với địch.
Gần ngàn người im phăng phắc, ngồi ngay ngắn, trật tự. Các tổ đảng, phân đoàn nắm chắc các thành viên trong mâm cơm của mình. Thực chất đã bí mật biên chế theo đội hình tiểu đội như ở đơn vị chiến đấu. Bộ phận cơ sở này có từ 10 đến 15 người, trong đó có cơ sở khoảng một nửa quân số là đảng viên, đoàn viên đã được hồi phục sinh hoạt, chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ huy. Mọi người tự giác thực hiện nghiêm túc các quy định của tập thể. Đang ở tù nhưng vẫn xác định rõ: Là những chiến sĩ của Đảng, của dân, tự nguyện hy sinh vì cách mạng. Được hy sinh vì Đảng, cho dân là niềm mơ ước lớn. “Quân lệnh vẫn như sơn”, tất cả gần ngàn người sẵn sàng đấu tranh, giáng trả địch. Gần trưa, một chiếc xe hồng thập tự chạy từ hướng Bộ Chỉ huy nhà tù lên, còi báo động rú lên inh ỏi như điên dại. Theo sau là cả đoàn ô tô vận tải loại lớn GMC chở đầy lính quân cảnh, xe Jep của sỹ quan, xe điện đài. Đến gần cổng phân khu D4, dừng lại, tụi quân cảnh đông đến vài trăm tên nhảy xuống đất, súng lăm lăm trong tay, nhiều đứa đeo, cầm điện đài lớn bé gọi “Alô! Alô!” ngậu xị… Luôn có sẵn phương án tác chiến đàn áp tù, tụi lính quân cảnh nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí, dàn quân 4 phía xung quanh ở ngoài hàng rào kẽm gai. Tụi cố vấn Mỹ cao to, mặc áo giáp cổ đỏ như gà chọi, lông bàng bạc tự lái xe Jep gắn đại liên lắp sẵn băng đạn dài ngoằng, kêu loẻng xoẻng.
Tên đại úy Hiển ngổ ngáo nhảy từ trên xe Jep xuống, hắn bước chân xộc vào cổng phân khu D4. Tên thiếu úy Hách, trung sỹ Điềm khúm núm chạy lên mở cổng, tên đại úy Lê, thiếu úy Hảo, đại úy Quy, sỹ quan phụ tá chỉ huy trưởng xun xoe nhường đường cho Hiển.
Theo sau tên đại úy Hiển, trưởng Ban An ninh, kiêm Tổng Giám thị nhà tù Phú Quốc là 60 tên lính quân cảnh xếp hàng hai, đầu đội mũ sắt sùm sụp hung dữ, hông đeo dùi cui bước đều răm rắp. Thằng lính nào chẳng sợ khiếp vía “hung thần trên đảo”. Ai đặt cho tên Hiển biệt danh này vậy? Không rõ lắm. Chỉ biết, Tết Mậu Thân 1968, Hiển đeo lon thiếu úy, khi đó, nghĩa trang nhà tù Phú Quốc có 57 mộ (Đợt tù binh ra nhà tù Phú Quốc đầu tiên, tháng 6/1967 là 300 người). Năm rưỡi sau, mùa hè 1969, mộ tù ở nghĩa trang đã san sát, kề liền, chạy dài tít tắp. Hơn 2.000 mộ mới, đồng nghĩa với việc tên Hiển lên lon vù vù. Từ thiếu úy, thăng trung úy, rồi đặc cách phong đại úy vì có nhiều thành tích trong chỉ huy bắn giết, tra tấn, hành hạ những người tù yêu nước. Cố vấn Mỹ cho đại úy Hiển được quyền điều động tới một đại đội quân cảnh, hơn 100 tay súng tự do tới bắn giết, đàn áp ở bất kỳ phân khu nào thuộc khu nhà tù Phú Quốc (có hơn 30.000 người tù, ở 40 phân khu). Đại úy Hiển được “tùy nghi đàn áp, khủng bố”, không cần báo cáo cấp trên (trung tá chỉ huy trưởng).
Đã có lần tại phân khu B5, hai đồng chí đảng viên Thanh và Nghiêm đã cảm tử xin Đảng ủy cho tiêu diệt tên đại úy Hiển. Nguyện vọng chính đáng được cấp trên chuẩn y, nhưng khi hai anh thực hiện nhiệm vụ, do quá thù tên Hiển, nhiều anh em ùa đến, xông vào cùng tấn công tên đại úy sát nhân này. Thanh đã vung búa bổ củi nhằm vào tên Hiển, nhưng sợ bổ vào anh em nên phải dừng tay. Tên đại úy Hiển khiếp đảm chạy ra cổng, cuống quýt kêu cứu. Tụi lính gác đứng trên chòi canh bắn như đổ đạn, chặn đường truy kích của anh em ta. Trong lúc cuống cuồng bỏ chạy, tên đại úy Hiển đã rơi cả mũ và súng, không dám quay lại nhặt, hớt hơ hớt hải “dông” một mạch vào nhà Ban chỉ huy đại đội quân cảnh ngồi thở khiếp vía.
60 tên quân cảnh đã vào đến sân, đại úy Hiển hung hăng ra lệnh cho đám quân cảnh:
           - Mỗi người cách nhau năm mét. Triển khai sẵn sàng chiến đấu!
Phía ngoài hàng rào kẽm gai, mấy trăm tên lính hung dữ, súng lăm lăm trong tay chĩa nòng vào đám đông, tay đã đặt sẵn vào vòng cò, sẵn sàng nổ súng bắn vào anh em ta đang ngồi im lặng như tờ. Hai chiếc xe Jep của cố vấn Mỹ đỗ cách nhau 15m quay nòng đại liên chuẩn bị nhả đạn chéo cánh sẻ vào anh em ta. Không khí cực kỳ căng thẳng. Giờ phút quyết liệt đã đến. Đột nhiên Cù Xuân Bổng vụt đứng dậy, hô lớn:
           - Tất cả anh em bình tĩnh!
Tụi quân cảnh sững sờ, một số tên tiến gần chỗ anh em ta, vội vã lùi lại, chúng lơ láo sợ hãi nhìn ngàn người tù ngồi quần tụ thành một khối liên kết vững vàng. Tên đại úy Hiển hoảng hốt, bởi hắn biết rõ: Các chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam luôn thống nhất tư tưởng, thống nhất ý chí và hành động. “Nhất hô vạn ứng”, khi đã có hiệu lệnh thì hàng vạn người như một, nhất tề giáng trả những đòn quyết liệt vào kẻ thù. Lúc này, giọng đại úy Hiển nói trong hơi thở gấp gáp, không còn nhuệ khí hung hãn như lúc ban đầu, hắn hạ giọng:
           - Ở đây tôi là người chỉ huy tối cao, anh em quân cảnh nhất nhất phải theo lệnh tôi. Yêu cầu đại biểu của tù binh, mỗi phòng cử một người ra chòi giám thị để giải quyết!
Trước sự đấu tranh kiên quyết, tinh thần đoàn kết sắt son của anh em ta, địch đã phải chùn tay. Cù Xuân Bổng và 8 đồng chí đàng hoàng ra chòi giám thị để đấu tranh trực diện với địch. Tên đại úy Hiển cho 20 lính quân cảnh cao lớn cầm dùi cui hằm hè đứng vây xung quanh người của ta. Tên Hiển gõ gõ chiếc bút bi xuống mặt bàn. Tiếng hắn trầm hẳn xuống như chưa hết sự bàng hoàng thảng thốt, hắn nói với Cù Xuân Bổng như vừa đe dọa, vừa nắn gân:
           - Vừa rồi tôi mới hô một câu mệnh lệnh mà anh đã đứng dậy hét toáng lên. Cứ như vậy, nếu tôi hô tiếp, anh thét to, mạnh hơn. Chuyện gì xảy ra anh biết chứ? Đến một lúc nào đó, nơi đây, sân nhà tù sẽ là bãi chiến trường của đôi bên, nên tôi phải “nhanh tay” yêu cầu các anh em chiến hữu ra đây giải quyết để tháo ngòi nổ. Bây giờ, anh sẽ là người phát biểu đầu tiên.
Cù Xuân Bổng nhìn thẳng vào mặt tên trùm an ninh ác ôn khét tiếng “uống máu người không tanh” rồi nghiêm giọng:
           - Tôi hỏi đại úy, chúng tôi là tù binh mất tự do, nhưng có được quyền làm người hay không?
Tên đại úy Hiển bỗng nhiên giật nảy người trước câu chất vấn sắc sảo của người tù còn trẻ măng, như cứa vào tâm can của hắn. Lúc này không phải là “xuống thang” mà thật sự “trượt thang”, tên Hiển ấp úng nói không nên lời :
           - À...! Không, không... không ai dám đụng đến quyền làm người của các anh đâu!
           Cù Xuân Bổng tiếp tục tấn công:
           - Vậy tại sao các ông nói một đường, làm một nẻo? Ở chiến trường sắt đọ sắt, thép đọ thép, vũ lực đối vũ lực, vũ trang đối vũ trang. Còn ở đây, chúng tôi chí có tay không, ốm yếu, thương tật, lại phải sống o ép trong mấy chục lớp hàng rào kẽm gai rồi mà vẫn bị các ông đầy đọa, tra tấn, bắn giết. Quyền làm người của chúng tôi đã bị các ông hủy diệt. Thử hỏi nhân tính con người của các ông có còn hay không?
Tụi lính quân cảnh đứng vòng ngoài có vẻ thích thú vểnh tai chăm chú lắng nghe, khi có người đã nói lên sự thật. Tên Hiển chợt phát hiện ra thế bất lợi. Nếu như lúc đầu hắn bày binh bố trận, dàn quân cảnh thị uy để sẵn sàng đàn áp lại tù binh, thì bây giờ “gậy ông đập lưng ông”, chính bọn lính đang nghe tù binh Cù Xuân Bổng tố cáo tội ác (trong đó có cả những lời binh vận) nên tên Hiển vội vàng đứng dậy ra lệnh:
           - Các ông sĩ quan, các anh em quân cảnh giải tán về đơn vị!
Sợ đòn roi, cúp phạt, nhốt két xô nên tụi lính dạt ra, nhưng nhiều đứa lại đi lom khom, vòng ra phía sau, quay trở lại, nấp sau vách chòi thị, để tiếp tục nghe cuộc đấu lý đầy hấp dẫn. Tiếng tù binh trẻ Cù Xuân Bổng vẫn vang như tiếng chuông đồng:
           - Thời Xuân Thu - Chiến Quốc có bạo chúa Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn sống nhà Nho, giết học trò. Lịch sử đời đời nguyền rủa. Ngày nay, chế độ bạo tàn đang theo vết xe đổ đó, thẳng tay khủng bố, đàn áp, không cho anh em chúng tôi học văn hóa. Vậy là sao?
Trước sự đoàn kết ngàn người như một, là cơ sở hậu thuẫn mạnh mẽ cho các đại biểu tù binh đấu tranh hết sức linh hoạt và kiên quyết. Cuối cùng địch phải chấp nhận các yêu sách của anh em ta đưa ra như: Chấm dứt vĩnh viễn tạp dịch, đào đắp công sự, rào kẽm gai... tù binh không làm những chuyện có tính chất nô dịch, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm con người, như phục vụ sỹ quan và gia đình của chúng, không chào sỹ quan, đọc các tiêu lệnh do chúng ép buộc v.v...
Ngày hôm sau, để vớt vát thể diện, bất ngờ tên đại úy Hiển chỉ huy hơn 100 quân cảnh vào phân khu D4 soát phòng. Giống hệt đám cướp ngày, tụi quân cảnh dùng thuốn sắt xăm khắp nơi, mọi chỗ. Lấy xẻng đào bới tứ tung tìm hầm vượt ngục. Tài sản của người tù chẳng có gì ngoài bộ quần áo phin mỏng nhuộm màu nâu gụ rách sờn, vá víu, độc bộ mặc vào người, nhưng tụi sỹ quan an ninh và lũ quân cảnh vẫn nhảy lên sạp nằm của anh em ta. Chúng soi mói, giằng giật những mẩu vải áo mưa rách, cũ mà anh em vẫn dùng đắp thay chăn, gối đầu. Chúng thỏa thích rũ tung tóe tìm kiếm từ chiếc nhẫn nhôm khắc chạm đôi bồ câu trắng, ép nhựa xanh, hồng, đỏ... (nhựa ép, chặt ra từ bàn chải đánh răng để làm vật kỉ niệm cho người thân), đến cả những chiếc muôi múc canh bằng tôn tự gò, tẩu thuốc lá trạm trổ hoa, lá, ép nhựa xanh, đỏ… Tụi quân cảnh được chỉ huy của chúng cho phép tịch thu hết mọi thứ mà chúng cho là “bất hợp pháp”, chính xác hơn là chúng cướp của những người tù, đem về chia nhau sử dụng.
Tên đại úy Hiển, đang là sỹ quan chỉ huy cao nhất, trùm sục sạo, cướp bóc nhưng lại ra vẻ văn chương “thanh tao, có học”, hắn tìm gặp Cù Xuân Bổng nhe nhởn:
  • Anh Bảng (trong tù Bổng khai tên là Bảng) có thích truyện Kim Vân Kiều của tiên sinh Tố Như Nguyễn Du không? Áng văn chương tuyệt tác, mê quá đi chứ! Thế anh thấy đoạn nào, câu nào hay nhất? Cù Xuân Bổng mỉm cười, có chủ ý sẵn, anh ngâm nga nẩy Kiều:
 “Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu, mặt ngựa, ào ào như sôi”
Tên đại úy Hiển tái mặt, chỉ tiếc không có lỗ nẻ ở dưới đất để hắn chui xuống giấu bộ mặt xấu xa, nhục nhã.
Từ đó, tên đại úy Hiển không dám ra mặt xuất hiện trước anh em tù binh, nhưng để trả thù, hắn đã lệnh cho tên trung úy Long đưa Cù Xuân Bổng đi nhốt ở chuồng cọp. Chúng gán cho anh Bổng tội “phần tử chống đối nguy hiểm”. Tên trung úy Long, thượng sỹ Minh, trung sỹ Phước đã dùng dùi sắt quấn giẻ đánh vào đầu Cù Xuân Bổng (đánh theo kiểu đó nạn nhân ê ẩm, ngấm đau đến tận tủy). Bị đòn hiểm, đầu Bổng mềm nhũn, sưng to, ngã vật xuống đất. Tụi “đầu trâu, mặt ngựa” thượng cẳng chân, hạ cẳng tay thi nhau “bồi tiếp”, hết đá lại đạp giầy đinh vào đầu, mặt, ngực của Bổng. Tên trung úy Long nghiến răng rít lên trèo trẹo: “Đánh cho mày không chết thì cũng ốm hoặc thành thằng rồ, thằng điên. Suốt đời phải nuôi báo cô con ạ!”…
Ở chuồng cọp về, Cù Xuân Bổng nằm liệt giường, nói năng khó khăn, đầu luôn ê ẩm, nhức nhối, tai bị ù, bị điếc dần, người Bổng gầy đen xạm, thần kinh trở nên bất thường, trí nhớ giảm sút nghiêm trọng nhưng niềm mơ ước lớn của anh không bao giờ phai nhạt.                                                                          
                                                                           Hương Sơn (ghi)
                                                  (Bài viết trong tập Hồi ký: Kiên Trung Bất khuất
                                            do Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội xuất bản)
                     
SỰ HY SINH THẦM LẶNG
(Viết về ông Cao Bá Trác, xã Trung Giã)
Nửa đêm, tự nhiên Cao Bá Trác thích thú, kêu lên nho nhỏ:
- Chết với tôi rồi! Lần này thì thành công, không chê vào đâu được!
Dương Văn Đam giật mình vội lay bạn:
- Anh Trà! Anh Trà! Ngồi dậy uốn lưng, vung tay, vung chân cho tan máu là hết mơ màng ngay thôi! (Trà là tên gọi của Cao Bá Trác trong tù).
Trác cười khúc khích:
- Còn lâu tớ mới mơ ngủ.
- Thế nói lảm nhảm cái gì đấy?
        - Tớ đã có cách làm men kiểu mới và ủ cơm rượu thành công rồi.
Từ khi được Đảng uỷ phân khu A4 giao nhiệm vụ làm Trưởng phòng nhà bếp, lúc đầu Trác lo lắm. Ở nhà đi học rồi làm Bí thư xã đoàn Trung Giã, công tác thanh niên phải là người có năng khiếu, giỏi đàn, hát, thơ ca, khuấy động phong trào. Còn đến khi về nhà, mẹ, vợ, em gái không để cho Trác nấu cơm bao giờ nên chẳng mấy khi phải vào bếp.
Khi nhập ngũ, Cao Bá Trác là Đảng uỷ viên xã Hồng Kỳ, huyện Đa Phúc (nay là Sóc Sơn). Được cấp trên chú ý, ưu tiên đào tạo nguồn. Lúc bị địch bắt, Trác mang quân hàm thiếu uý, phân đội trưởng đặc công, nhưng anh khai tên là Trà, chiến sỹ bộ binh.
 Là Trưởng phòng nhà bếp, chăm lo việc ăn uống cho gần 800 anh em trong phân khu, lãnh đạo 43 "nhân viên hỏa thực", Cao Bá Trác phải học hỏi, phấn đấu để biết nấu ăn giỏi.
Dương Văn Đam rất mê "cơm rượu" nên giục Trác.
         - Anh cho chú nếm thử?
Trác thân mật:
         - Không! Phải công bằng theo đúng tiêu chuẩn chứ, ngày mai chia đều cho anh em toàn phòng. "Em rể" cũng có phần đấy.
Cao Bá Trác có cô em gái tên là Thêm, nghe nói vừa xinh, vừa nhanh nhẹn, tuy chưa biết mặt (vì đang còn ở lao tù Phú Quốc, cách thôn Hoà Bình - xã Trung Giã những hơn 2.000 cây số), nhưng Dương Văn Đam đã "xí phần" nhận Trác là "anh vợ". Quê Trác cách làng Thanh Hà - xã Nam Sơn nhà Đam chưa đầy chục cây số. Đam được cái cao lớn, đẹp trai, lại sống thoáng, nên Cao Bá Trác cũng thích và coi Đam như là "em rể".
Gạo, thực phẩm bị địch, nhà thầu bớt xén quá quắt. Bao gạo nặng 100kg hình vuông chỉ còn 65kg - 70kg. Thực phẩm quanh năm, suốt tháng chỉ là cá liệt ươn (loại cá thân bé, mỏng dính "móc họng" toàn xương), cá đuối thối khắm. Bốn năm ra đảo Phú Quốc, duy nhất một lần được ăn rau. Gần 800 con người, được một bao rau muống đã úa vàng, rụng hết lá, chỉ còn trơ cọng. Quá quý hiếm nên Cao Bá Trác cho anh em rửa sạch, để nguyên rễ, phần cọng già thái nhỏ, nấu ba vạc (chảo) nước đổ đầy.
Ăn uống thiếu chất, lại bị địch thường xuyên khủng bố, đánh đập, nên nhiều anh em bị liệt người, mờ mắt, suyễn nặng, phù thũng...
Thực phẩm là các loại cá ươn thối, bã mắm hôi tanh. Thay rau, có su su, bí đỏ, bí xanh "bủng beo, èo ọt" với gạo hẩm... Cao Bá Trác đã vắt óc suy nghĩ cùng anh em bàn bạc cải thiện bữa ăn. Dần dần, khẩu phần của anh em cũng được "nâng cấp" hơn: Cơm nấu xuể xoắn, tuy gạo xấu, nhạt nhưng nếu nấu khéo ăn cũng không đến nỗi nào. Quả su su, thái miếng, bỏ vào thùng phuy muối chua. Đầu cá liệt giã nhỏ, đổ nước vào lọc bằng miếng vải màn. Thế là hàng ngày, anh em có món canh cá nấu với dưa su su, chua ngọt. Ăn vào thấy ngọt lạ. Nước mắm được chế bằng cách lấy bã mắm thối thêm nhiều nước cùng ít cơm cháy rồi đun sôi thật kỹ, sau đó đổ vào túi vải, treo lên, nước nhỏ giọt từ từ thế là được nước mắm trong, màu sẫm, mùi có chút thơm thơm khen khét của cháy. Chia về các phòng, anh em chưng khô thành mắm ăn với cơm cũng tốt. Cá kho ở vạc to, dễ bị nát, trơ xương nên phải cải tiến kiểu kho: Cá làm sạch, bỏ vào cà mèn tập thể (loại cà mèn lớn, đựng được trên dưới chục suất cơm) rồi bỏ muối, mắm vừa ăn, khi nấu lại không nát, con cá liệt, miếng cá đuối còn nguyên. Chất lượng ngon lên hẳn. Có mâm, anh em còn "cải tiến" thêm: Gỡ thịt cá, loại bỏ xương rồi rim khô với nước mắm ăn đậm miệng, thơm ngon, đánh lừa cái miệng.
Quê Trung Giã của Trác là miền đất nghèo nên một số người quen nấu rượu bằng khoai lang, một loại rượu trong vắt, thơm nồng. Người khó, có rượu khoai lang uống cũng tốt. Ở lao tù, giữa đảo Phú Quốc, sau mấy chục lớp hàng rào kẽm gai, không cần gạo, chẳng có nếp, độc khoai lang nấu ra rượu. Để có “cơm rượu" ăn phòng, chữa bệnh, Đinh Phúc Thành người dân tộc Mường, quê Kim Bôi (Hoà Bình), đã cùng Trác mày mò làm thử. Men rượu là cỏ mần trầu giã nhỏ, thêm vỏ bí xanh, hoà nước ấm, trộn với gạo. Mẻ cơm rượu lúc chiều được Trác gói vào miếng áo mưa rách nồng, ngọt, thơm phức, thật tuyệt.
Sáng hôm sau, như lời hứa, Cao Bá Trác mở gói cơm rượu, chia cho cả phòng. Anh em ăn, ai cũng tấm tắc khen ngon. Phần của mình, Trác chỉ ăn một góc, còn lại đưa cho "em rể" Dương Văn Đam. Dù Đam hơn Trác vài tuổi, nhưng theo tập quán, tôn ti trật tự thì Đam vẫn phải gật đầu và nhoẻn miệng cười:
         - Em xin... anh vợ!
         - "Hót" dẻo thế!
Mọi người cười ồ vui vẻ. Mấy ai biết được ngoài nhiệm vụ lãnh đạo phòng nhà bếp, chi uỷ viên, Cao Bá Trác còn một nhiệm vụ quan trọng, cảm tử, bảo vệ tổ chức, bảo vệ tập thể. Để tổ chức vượt ngục, Trác chủ động đề nghị chi bộ, Đảng uỷ đào hầm bí mật ngay dưới sạp anh nằm và được chấp nhận. Nếu hầm đào thành công, Đảng uỷ sẽ chỉ định các đồng chí vượt ngục. Theo phương án, Trác ở lại trực tiếp đấu tranh với địch. Nếu hầm đào bị lộ, anh sẽ là người đầu tiên đứng ra nhận tội. Thế đấy, Cao Bá Trác luôn ở tư thế sẵn sàng đối mặt, thi gan, đấu trí với quân địch và chấp nhận mọi hình thức tra tấn man rợ, kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ đồng chí, đồng đội đến cùng.
Trong vòng 6 tháng, đường hầm đào dài được 71m, sâu l,5m, đường kính 0,65m. Cửa hầm trổ thoát ra, chỉ cách lều của trung đội 1 quân cảnh (30 tên, chuyên gác tù, do tên thiếu uý Trung chỉ huy) khoảng chưa đầy chục mét.
2 giờ sáng ngày 24/12/1971, cuộc vượt ngục lớn thành công, 41 người theo đường hầm ra ngoài. Hôm sau địch mới phát hiện ra thì chỉ còn hầm không. Địch báo động, sử dụng lực lượng trù bị của trại giam, các đơn vị đặc khu Phú Quốc: lính biệt động, quân bảo an, hai thuyền truy lùng. Máy bay trực thăng, máy bay trinh sát, vừa dò kiếm, vừa phóng rốc két, bắn súng máy bừa bãi như đổ lửa xuống rừng.
Tên trung tá Bùi Bằng Dực, Chỉ huy trưởng nhà tù Phú Quốc và tụi cố vấn Mỹ vội vàng phóng xe Jep đến hiện trường. Dực đùng đùng nổi giận, đánh tên thiếu uý Trung hai bạt tai "nẩy lửa", hắn cay cú chửi bới, quát tháo tên trung uý Long, Trưởng khu 4 rất thậm tệ (trung uý Long và trung uý Hiển là hai tên sỹ quan ác ôn bậc nhất, luôn được cố vấn Mỹ và quan trên tin dùng).
"Giận cá, chém thớt", các tên trung uý Long, thiếu uý Trung cùng 7 tên lính quân cảnh lực lưỡng, loại côn đồ hung hãn đưa Cao Bá Trác ra phòng giám thị "đánh không kịp thở". Vớ được gì là chúng thẳng tay phang nấy phang để: đòn khiêng cơm, dài vài mét, to hơn cổ tay; súng côn (súng ngắn) cầm đằng nòng, đập báng sắt vào đầu, thụi mạnh vào mặt, ngực, quật dùi cui, roi cá đuối...  Người Trác bê bết máu, mặt, cổ, ngực, tím bầm, sưng to. Trác bị ngất xỉu, ngã sóng xoài, chúng cầm tóc giật mạnh lôi dậy, hất ca nước vào mặt cho tỉnh. Vừa tra tấn, vừa hỏi cung, tên trung uý Long gầm gừ như con thú dữ:
- Chính mày tổ chức đào hầm?
Cao Bá Trác đã có kinh nghiệm chống trả địch. Không nói nhiều, anh lắc đầu trả lời nhát gừng:
- Không!
- Không là trùm tổ chức, sao miệng hầm ở ngay dưới gầm sạp, nơi mày nằm?
- Nếu là trùm vượt ngục, tôi đã đi với mọi người, ở tù làm gì cho khổ sở, cực thân?
Cứ sau mỗi câu hỏi, Trác trả lời, địch lại đánh túi bụi. Gần ba giờ đồng hồ tra tấn, đến khi trời đã sáng, tên trung uý Long đem Trác về Ban chỉ huy đại đội quân cảnh, lấy còng số 8, khoá quặt cánh khỉ hai tay Trác ra sau lưng, úp thùng phuy chụp kín người. Sau đó chúng dùng vồ, gạch gõ, đập mạnh, máu ở mũi, ở tai Trác ứa ra, đầu đau như búa bổ. Hất thùng phuy ra, tên trung uý Long, trung sỹ Tiến nhảy lên người Trác, thi nhau giẫm, đạp giày đinh nhún nhảy như vũ điệu Samba trên thân thể Trác làm máu miệng anh trào ra.
Cao Bá Trác bị đưa vào biệt giam ở khu 2 do tên đồ tể thượng sỹ nhất Trần Văn Nhu làm giám thị trưởng. Nửa năm sau, Trác chỉ còn là "da bọc xương",  bước đi loạng choạng, đầu tóc bù xù, người loang lổ đất, ghét như con trăn gió.
Hai anh Đào Văn Thọ, Đào Văn Thục, người cùng thôn Hoà Bình với Trác, ở nhà cùng sinh hoạt một chi đoàn, vào tù vẫn rất thân, nhưng do Cao Bá Trác bị hành hạ, đày đọa từ biệt giam về, thân hình xiêu vẹo, còm nhom, tóc dài rũ rượi... nên Thọ, Thục không nhận ra. Mãi đến khi anh lại gần, nói tên "Trác đây", Thục, Thọ mới mừng vui, ôm chầm lấy đồng hương.
Sự hy sinh thầm lặng của đảng viên Cao Bá Trác thật đáng khâm phục, cả trong chiến tranh và thời bình. Năm 1975,  khi đất nước thống nhất, Cao Bá Trác phục viên với quân hàm Thiếu úy, về quê làm xã đội phó xã Trung Giã. Gia đình neo túng, khó khăn nhiều mặt nhưng ông vẫn tự nguyện cho con trai Cao Văn Chung nhập ngũ, tiếp bước cha, cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Tháng 2/1979, Cao Văn Chung anh dũng hy sinh trong lúc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược biên giới Hoàng Liên Sơn. Thương xót và tự hào về con, Cao Bá Trác lao vào công tác, dồn hết sức cho công việc, nhiệm vụ được giao.
Do những vết thương trong tù tái phát, năm 2006, thiếu uý Cao Bá Trác mất trong niềm tiếc thương và kính trọng của gia đình, họ hàng, nhân dân trong xã về người chiến sĩ tù đày kiên trung bất khuất.                                                     
                                                                                                                               Thạch Hãn (ghi)
                                                (Bài viết trong tập Hồi ký: Kiên Trung Bất khuất
                                            do Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội xuất bản)
 
 
NHỮNG “NAN Y ... TÀN PHÁ”
TÌNH THÂN 
Bao đời tổ tiên ông bà, cha mẹ và bản thân tôi (Tống Trần Hội) được sinh ra, lớn lên tại Nghệ Tĩnh. Nhưng có chuyện ngẫu nhiên đến kỳ lạ, 5 năm ở tù tại Nam Bộ, tôi đã có quan hệ mật thiết, lâu dài với tất cả tù binh, quê ở hai huyện Kim Anh và Đa Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Sóc Sơn -  Hà Nội), là quê hương thứ hai của tôi bây giờ.
Vào thời điểm đó (1968-1973), tôi chưa hề đặt chân đến Bắc Bộ - điểm cực Bắc tôi được biết là thành phố Vinh (Nghệ An) còn cách xa Sóc Sơn tới 357 cây số. Vậy mà ở tù cùng các anh Minh (tức Đạo), Hồng (tức Thông), Lý (tức Thuận).., tôi hình dung khá rõ về miền đất bán sơn địa, gò đồi ở cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội với các địa danh nổi tiếng, hấp dẫn như: Núi Sóc, nơi Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời; sân bay quân sự Đa Phúc (nay là sân bay quốc tế Nội Bài), không quân ta xuất kích vào cầu Hàm Rồng (Thanh Hoá), lập chiến công đầu, bắn rơi 2 máy bay phản lực Mỹ. Có Núi Đôi, xuất xứ của bài thơ cùng tên hay nhất thơ cách mạng hiện đại, đã đi vào huyền thoại...
 “NAN Y... TÀN PHÁ”
Số là Hội Chữ thập đỏ Quốc tế, trụ sở tận thành phố Giơ- ne-vơ, Thụy Sỹ, đã cử bộ phận giám định y khoa sang miền Nam - Việt Nam, đến các trại giam để giám định những tù binh có thương tật nặng, hay còn gọi là "Tù binh nan y tàn phế". Cả miền Nam, chỉ có riêng một khu tập trung giam giữ với số lượng gần 600 người. Nhưng dù ở khu A hay khu B, hay trại tù binh Hố Nai - Biên Hoà hoặc đưa ra phân khu D9 - nhà tù Phú Quốc, rồi bị đầy ra đảo, thì "Khu tù binh nan y tàn phế" này vẫn quật cường đấu tranh mạnh mẽ, phá tan tành hệ thống cai tù kìm kẹp của địch. Ở đâu cũng đánh diệt, tống cổ tụi chiêu hồi, phản trắc ra khỏi khu giam… Vì thế Mỹ - Ngụy gọi anh em chúng tôi là “bọn nan y - tàn phá".
Huyện Sóc Sơn có 6 anh em ở "Khu tù binh nan y tàn phế". Tất cả đều là đảng viên, đoàn viên của tổ chức Đảng, đoàn bí mật tại nhà tù (4 đảng viên cộng sản, 2 đoàn viên). Đến nay, tôi vẫn nhớ tường tận chức vụ, quá trình hoạt động tại lao tù chống đế quốc của các đồng chí:
1. Quách Văn Thông, xóm Thượng, xã Đức Hòa
Vào tù anh khai là chiến sỹ Nguyễn Văn Hồng, nhưng ở ngoài đơn vị, anh Thông là chuẩn uý, trung đội trưởng súng máy phòng không 12 ly 7, bị thương nặng, và bị bắt ở chiến trường tỉnh Bình Định (1967). Tại trại tù binh Hố Nai - Biên Hoà, anh Thông là Bí thư chi bộ. Ra nhà tù Phú Quốc là Đảng uỷ viên phân khu D9.
Tôi còn nhớ, hồi ở BI8 - khu A - trại tù binh Hố Nai - Biên Hoà, gần nửa đêm nhưng vết thương nhức nhối, hai anh em không ngủ được. Anh Thông tâm sự: "Trước khi hết phép, chuẩn bị vào Nam chiến đấu, tớ dặn vợ, nếu tôi hy sinh, mình còn trẻ phải có hạnh phúc, đi bước nữa... vợ tớ khóc nhiều lắm!".  Lúc đó, anh Thông đang là Bí thư chi bộ, khi thực hiện nhiệm vụ thì anh là con người quyết đoán, có năng lực lãnh đạo, nhưng đời thường là con người dễ gần, tình cảm. Thời gian này, sắp đến 02/9/1969, địch tăng cường gây căng thẳng, anh em chúng tôi đã sẵn sàng để chống lại. Một cuộc đàn áp, khủng bố khá ác liệt sắp tới...
Trong đêm khuya, bất thình lình hàng trăm tên trâu bò (những tên chiêu hồi phản động), quân cảnh ập vào đánh đập, đàn áp anh em thương tật nặng, bất động ở B7 (phòng 7). Để yểm trợ cho đồng bọn, tụi lính gác trên các chòi bắn xả vào trại giam, ném lựu đạn cấp tập, chớp sáng đỏ rực. Mặt đất rung lên, mảnh lựu đạn bay vèo vèo... Anh Quách Văn Thông nhổm hẳn người lên bất chấp nguy hiểm, vung tay hô lớn.
         - Đả đảo chế độ độc tài phát xít đàn áp tù binh!
         - Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!
Hơn trăm anh em trong phòng, miệng hô đả đảo, tay lấy gậy nạng đập, khua vào vách tôn “náo động thiên cung”, góp phần hoà chung vào âm thanh rầm trời, dậy đất của cả khu đang phẫn nộ đả đảo, phản đối bàn tay tội ác đẫm máu của địch.
Thời gian sau, địch đem Bí thư chi bộ Quách Văn Thông ra phòng điều hành tra tấn. Tên trung sỹ Hà (phụ tá an ninh) và tên giám thị Nam dùng dùi cui tự tạo, to gần bằng bắp tay, cầm đoạn sắt bù loong lớn đánh vào vết thương, đánh vào các khớp xương. Sắt quật vào xương, bả vai, xương đầu gối... nghe rợn người. Anh Thông ngã khụy trong cơn đau đớn quằn quại, nhưng không hề rên la (tôi ở cùng phòng, cùng bị gọi ra phòng điều hành, tra tấn một lúc với anh Thông, được tận mắt chứng kiến). Vì anh Thông đã đứng tuổi, lại có bộ râu rậm rì "có tướng sỹ quan" nên chúng đánh anh nhiều nhất. Tra tấn từ sáng đến quá trưa, chẳng khai thác được gì, tên Hà ngán ngẩm đành để cho anh em chúng tôi dìu nhau về khu giam. Đầu gối của anh Thông sưng to, tím bầm, khắp người lằn đầy vết dùi cui. Các vết thương ở tay, chân do địch đánh toạc da, chảy máu, sưng tấy. Đau và mệt, nhưng khi về gần đến phòng ở, anh Thông nói nhỏ với tôi:
          - Tớ chỉ lo chúng nó đánh gẫy đôi chân.
          - Em đang lo, chiều nay, có giờ Toán và một số giờ Sử, chưa biết nhờ ai dạy thay.
Cuộc sống của chúng tôi ngày đó là vậy, ác liệt, gian khổ nhưng đầm ấm, thương nhau, luôn sống vì tập thể.
2. Đảng viên Nguyễn Văn Khánh, thôn Lương Châu, xã Tiên Dược - người hai lần “được” làm lễ truy điệu sống
Nguyễn Văn Khánh, quê thôn Lương Châu, xã Tiên Dược, chiến sĩ tiểu đoàn 40 đặc công thuộc Sư đoàn 3 - Sao Vàng, lập nhiều chiến công xuất sắc trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, vinh dự được Bác Hồ gửi quà trước một tuần ngày kết nạp Đảng (22/8/1968). Là người hai lần "được" đơn vị làm lễ truy điệu sống. Đặc biệt, trong lễ truy điệu lần 1, tại Trạm Ông Câu, trước khi bước vào trận đánh Núi Lá (Bình Định), Nguyễn Văn Khánh đã xé ống tay áo của mình để viết lời thề quyết tử: "TRUNG VỚI ĐẢNG, HIẾU VỚI DÂN". Và ngay đêm hôm đó, Khánh viết lời vĩnh biệt “MẬU THÂN BÁO HIẾU” (bằng thơ) gửi về gia đình.
MẸ ƠI !
Hôm nay mùng Chín, tháng Giêng 
Con đeo băng QUYẾT TỬ đầu tiên 
Núi Lá đồn giặc con lao mình xốc tới 
Chiến thắng vinh quang báo hiếu mẹ hiền
CHA ƠI !
Con đã lớn lên rồi sướng như tiên 
Lời cha dạy con nhớ mãi không quên 
"Còn giặc thù, còn đói nghèo nợ kiếp 
Phải đánh tan cho hết xích gông xiềng!”
VÂNG !
Nghe lời cha, con hiến thân mình về cõi 
Chốn vĩnh hằng nơi đất mẹ yêu thương 
Và giờ đây con viết lời trăn trối 
Trước lúc lên đường, chào vĩnh biệt quê hương 
Dù mai sau con không còn gặp nữa 
Giữa đất trời hoa lá với cỏ cây 
Con vẫn nghe những lời mẹ hát 
Như thì thầm ru con ngủ đâu đây 
Trong đêm dài sương đông giá lạnh 
Con hành quân trăng sáng với trời mây 
Súng chắc trong tay hận thù còn đấy 
Và đêm nay con xin đền đắp vơi đầy 
Vĩnh biệt cha, con cúi chào tiên tổ 
Thanh thản ra đi mẹ đang đón con về 
Vâng! Thật hả hê!
Ta đã sống và linh hồn mãi sống 
Cho yêu thương xanh mãi một vùng quê 
                 Đêm Bình Định: 8/1/1968 
                 Con: Nguyễn Văn Khánh !

Vốn là "học trò khoác áo lính" tốt nghiệp phổ thông đi bộ đội thời đánh Mỹ được coi là văn hoá khá. Nguyễn Văn Khánh tham gia chiến đấu tại chiến trường tỉnh Bình Định. Trong lúc luồn sâu đánh địch, anh bị thương nặng và bị tụi lính "Sư đoàn mãnh hổ" Pác - Chung - Hy (Đại Hàn) bắt được.
Thương tật khắp người, anh nằm liệt trên nền xi măng nhưng vẫn bị tra tấn, hành hạ, đánh đập tàn nhẫn để khai thác, lấy cung. "Mềm nắn, rắn buông", không đe nẹt nổi, địch đưa anh vào tù khi các vết thương còn sưng tấy, đầy máu, mủ. Mọi người quý anh ở đức tính cần cù, nhiệt tình trong công tác. Thương tật nặng, mắt mờ, tai bị chấn thương, đầu hay bị váng... nhưng anh vẫn xung phong xuống giúp anh em nhà bếp làm các việc nặng nhọc, khiêng nước, cọ chảo… "Khu nan y tàn phế" hai lần đào hầm ngầm vượt ngục tại khu D9 - nhà tù Phú Quốc và khu A - nhà tù Biên Hoà, đảng viên Nguyễn Văn Khánh đều xin nhận nhiệm vụ được trực tiếp chui vào sâu trong lòng đất, đào, ém đất, bò kéo bao tải đất, đưa lên mặt đất, để anh em tiêu huỷ. Tính kiên nhẫn, lòng nhiệt tình hăng hái của anh thật bền bỉ. Đào hầm ngầm vất vả, công việc nặng nhọc kéo dài nhiều tháng, thế nhưng trông anh vẫn vui vẻ, đầy hăm hở.
Công việc bận rộn đến mấy, anh Nguyễn Văn Khánh vẫn sắp xếp thời gian hợp lý, khoa học, miệt mài "đèn sách" học và dạy cho anh em học văn hoá. Tôi vẫn hay trêu anh Khánh về "đôi mắt đen cùng lớp" đang học ở Đại học Y khoa Hà Nội - ngoài miền Bắc. Một bên giảng đường đại học, cửa kính màu xanh. Một bên lớp học "trên cát"... Hai ta "ở hai đầu đất nước" vẫn thương nhớ đến nhau... Những lúc đùa vui như vậy anh Khánh cười sảng khoái, hiền khô.
"Khu nan y tàn phế" có 582 người, hầu như tất cả đều lao vào học tập văn hoá, bí mật học triết học, chính trị... Giáo viên văn hoá, trực tiếp do anh Nguyễn Văn Chiển đào tạo. Lớp tôi học có 14 người. Trình độ khởi điểm của các "giáo sinh" phải tốt nghiệp phổ thông, có năng khiếu sư phạm, biết diễn giảng, truyền thụ kiến thức cho người khác. Số giáo viên nguồn, 14 "thầy" về các phòng dạy cho anh em học chương trình cấp 2, cấp 3. Chúng tôi lại xét, tuyển chọn một số anh em có trình độ khá, nhiệt tình, có "năng khiếu dạy học", tập huấn phụ đạo thêm cho anh em, để làm giáo viên của các lớp, học chương trình cấp 1.
Người người đi học. Cả khu "Nan y tàn phế" cùng đi học. Người biết chữ nhiều dạy cho người biết chữ ít, người biết chữ ít dạy cho người không biết chữ. Có anh em đi bộ đội, văn hoá lớp 5 như Phạm Đức Tăng nhờ học tại tù nên khi trao trả về miền Bắc (1973) thi đậu luôn vào Đại học Kinh tế - Kế hoạch Hà Nội. Sau này anh Tăng là kỹ sư, Phó Ban Tổ chức của Tỉnh uỷ Hà Bắc. Nguyễn Văn Phương, học xong cấp 2 với "Lớp học trên cát",  khi ra tù thi đậu Đại học chính quy và trở thành kỹ sư có năng lực, công tác quản lý ở Sở Lâm nghiệp tỉnh Vĩnh Phú. Còn anh Khánh là thầy của Tăng, của Phương nên khối lượng học và dạy của anh hàng ngày phải gấp rưỡi, gấp đôi học trò.
Nắng Nam Bộ quanh năm nóng như đổ lửa, thầy trò chúng tôi vẫn đứng, ngồi giữa sân nhà tù dạy và học. Anh Nguyễn Văn Khánh bị thương vào đầu, mắt mờ, trí nhớ có phần giảm sút. Khi học, anh phải đặc biệt chăm chú nghe giảng, về phòng "vật lộn" với các công thức, định lý, nhiều khi vài ba ngày "mất ăn, mất ngủ" mới giải được bài toán khó. Trời Nam Bộ đang nắng tự dưng mưa ào, rồi lại tạnh. Ngớt mưa, chúng tôi lại ra sân học, dạy. Lớp học giữa sân nhà tù, đất, cát, bùn, nước lầy lội. Đôi chân thương tật của tôi gãy nát không ngồi xổm được. Nhiều lần mưa xong lúc trở lại lớp học, anh Khánh phải đứng cho tôi dựa. Hai anh em đứng lom khom, tôi choàng tay qua vai anh Khánh, tựa vào anh, để nghe giảng bài, chữa bài tập.
Ngoài tình đồng đội, đồng chí, anh em đằm thắm, tôi, anh Khánh và các anh: Phạm Văn Khang, Nguyễn Quốc Việt, Ngô Chính Chữ... còn là tình bạn đồng học, đồng nghiệp ở chốn lao tù, luôn sống với nhau cởi mở, cưu mang, đùm bọc.
3. Thiếu uý Nguyễn Văn Vệ, thôn Xuân Kỳ - xã Đông Xuân
Tính anh Vệ thật thà như đếm (trong tù, tên anh khai là Hoà, chức vụ chiến sỹ). Anh Vệ bị thương cụt một chân quá đầu gối, nhiều vết thương ở người, bụng dưới (tỷ lệ thương tật 78%). Do vết thương luôn gây cho anh đau đớn nên phải điều trị tiêm moóc-phin giảm đau, đỡ co giật. Lâu rồi trở thành "quen thuốc... nghiện thuốc". Nhiều khi tiêm không đủ liều, không có moóc-phin thì cơn đau nổi lên dữ dội, kéo dài. Đó là cảnh già hôm nay. Còn lúc ở tù, anh Hoà (tức anh Nguyễn Văn Vệ) còn trẻ, nhanh nhẹn, chống đôi nạng đi thoăn thoắt. Chiều 27/11/1972, địch đưa 582 "Tù binh nan y... tàn phá" từ D9 - nhà tù Phú Quốc về khu A - nhà tù Biên Hoà. Chuẩn bị cho đợt trao trả đầu tiên, vào ngày 15/2/1973, tại sông Thạch Hãn - Quảng Trị.
Bác sỹ Nguyễn Tường Sơn (quê Thái Bình) trước khi đi B, công tác tại bệnh viện 108 - Hà Nội. Bác sỹ đã có vợ là y sỹ và hai con nhỏ đang học tập ở Hà Nội. Bác sĩ Nguyễn Tường Sơn bị thương khá nặng, gãy xương đùi phải, vỡ xương bánh chè ở đầu gối. Lệch người, đi lết cà thọt. Ông đã bị giam ở nhà tù Biên Hoà gần 2 năm (1968-1970). Bác sỹ chu đáo chăm sóc các bạn tù đau ốm, tận tụy cứu chữa cho những anh em bị tái phát vết thương, đòn thù tra tấn... Vì vậy, lũ giặc vô cùng căm ghét, khi nhận ra ông là bác sỹ quân đội, chúng dùng xẻng bổ mạnh vào đầu, óc phọt ra xam xám, thật rùng rợn!
Vệ chỉ còn một chân, chống nạng đi hàng đầu (như Nghị quyết của Đảng uỷ D9, Nhà tù Phú Quốc đã chỉ rõ: Khi địch đàn áp thì cán bộ, đảng viên, đoàn viên, phải chủ động tiến lên trước, đấu tranh với địch, để cho quần chúng noi theo). Tên trung uý Ngọc, sỹ quan người Bắc di cư, Trưởng Ban an ninh nhà tù Biên Hoà, thấy Vệ đứng phía trên, hơi tách ra khỏi hàng, lại là thương binh cụt chân, hắn xông đến, định kéo anh xô vào cổng nhà tù. Chờ tên trung uý Ngọc lại gần, bất thình lình Vệ vung nạng, quật mạnh hết cỡ, trúng đầu tên sỹ quan trùm an ninh. Anh em đánh bồi tiếp. Tên Ngọc tối tăm mặt mũi, hắn rú lên, vừa vuốt máu đầu ròng ròng chảy xuống mặt, vừa kêu thất thanh:
- Bay ơi? Chúng nó đánh chết tao rồi!
Tụi quân cảnh hoảng hốt, cuống quýt nổ súng... Tên thiếu tá Có, Chúa ngục (Chỉ huy trưởng nhà tù Biên Hoà) cầm loa điện gào lên:
- Lính quân cảnh, xông vào, cứu trung úy. Thằng quân cảnh nào bỏ chạy, tao bắn vỡ sọ.
Tên thiếu tá Có giằng lấy khẩu tiểu liên của một tên lính ở gần, hắn nghiến răng lên đạn. Thật sự là một trận giáp lá cà. Lũ quân cảnh, tụi cai tù chiêu hồi “nhào dô”. Anh em ta giáng trả mạnh mẽ. Hào, Phong, Hải… bị thương nặng, nhưng lũ cai tù “trâu bò” chiêu hồi đã phải cuốn gói, cút ra khỏi khu A - nhà tù Biên Hòa. Anh em ta làm chủ khu này đến khi được trao trả.
4. Thương binh Dương Minh Đạo, quê ở xóm Mới, thôn Ninh Kiều, xã Tân Dân.
Thời đó (1969 - 1973) anh còn trẻ, nói năng có duyên. Đồng chí là ủy viên Ban Chấp hành chi đoàn, cực kỳ khéo tay và là một người năng động, tốt bụng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Người nào lấy áo tù cắt thành chiếc quần xà lỏn (quần đùi) thì Minh (tên khai trong tù của Đạo) cũng bắt đầu làm kim. Anh lấy một mẩu “tanh” ở vòng lốp ô tô (cao su phế phẩm, người tù dùng để nhóm bếp). Có sợi thép nhỏ trong tay, Đạo dùng hai mảnh gỗ phẳng, kẹp chặt sợi thép vào giữa vuốt mạnh. Sợi thép mòn mau chóng, đang đen thành trắng, nhỏ mảnh trông thấy. Sau đó, đục lỗ kim làm mũi nhọn… Quần cắt xong, cũng vừa có kim mới để khâu, may. Dương Minh Đạo và Vũ Đắc Xuân được gọi là “chuyên viên làm nhạc cụ”. Các anh đẽo củi, lấy mảnh gương, kính vỡ bào thành tay đàn phẳng lì, trơn bóng rồi gò thành hộp thùng đàn. Sợi dây đàn là thép “tanh” vành lốp ô tô chuốt nhỏ. Có những sợi cần thêm một lớp quấn ở bên ngoài, bọc lấy sợi bên trong làm lõi. Đạo, Xuân lấy một mẩu kẽm gai uốn thành chữ Z, đục lỗ một đầu, cột sợi thép nhỏ (tách ra từ vành lốp ô tô theo đúng kỹ thuật âm sắc của từng loại dây đàn), dùng tay, xâu mẩu thép chữ Z qua lỗ của nạng thương binh vẫn dùng đi lại. Sau đó, quay nhanh sợi dây thép sẽ quấn đều, kín sợi lõi đã được căng ra… Có dây đàn hai lớp, y hệt như dây đàn do máy móc tinh xảo sản xuất đến mức tụi quân cảnh đi tuần thấy các sợi dây đàn, chúng vẫn đinh ninh là có người nhà thăm nuôi, mua tiếp tế… Thế là anh em trong đội văn nghệ có đủ: đàn măng đô lin, ghi ta, vi ô lông, đàn bầu... Nhạc cụ dồi dào cả về số lượng và chất lượng, phục vụ cho 51 tiết mục biểu diễn trong 2 ngày Tết Quý Sửu (năm 1973) ở hai sân khấu ngoài trời.
Còn tôi, người viết những dòng này, vui nhiều hơn buồn. Thương nhớ và tự hào mỗi khi suy nghĩ và nhớ lại: “Khu Nan y - tàn phá”.
                                                                               Tống Trần Hội (ghi)
 
 
 
 
NIỀM TIN CHIẾN THẮNG
                             (Viết về ông Đào Văn Thọ, thôn Hòa Bình, xã Trung Giã)
Đào Văn Thọ nửa tỉnh, nửa mê bởi vết thương nặng (đạn xuyên ngực phải, đạn vào bụng làm đứt ruột, đạn bắn vỡ mắt cá chân trái). Anh được nằm trên tấm liếp tre ở góc nhà, nơi an toàn, kín đáo hơn cả. Chỗ gần cửa sổ, Nguyễn Văn Kính, người làng Đô Tân - xã Bắc Sơn - Đa Phúc - Vĩnh Phúc (nay là xã Bắc Sơn - Sóc Sơn - Hà Nội), bị mảnh lựu đạn vào bắp chân, đã được băng bó cẩn thận. Đồng hương cùng huyện, gần nhau lại đi bộ đội một ngày, ở cùng đại đội nên thân thiết. Kính và Thọ đang nằm ở trạm giải phẫu tiền phương. Trong một ấp của huyện Tuy Phước - tỉnh Bình Định kề giáp thị xã Quy Nhơn. Nhân dân đã chạy giặc, ấp trở nên hoang vắng. Chờ đến tối, họ sẽ đưa cả hai anh về hậu cứ.
Gần quá trưa, tụi lính Pác- Chung- Hy (Đại Hàn) lẻn vào ấp. Theo linh cảm, Tâm đưa mắt nhìn ra vườn, thấy mũ sắt lố nhố sau các gốc cây. Khoảng chừng một đại đội lính Pác- Chung- Hy, thằng nào cũng mắt một mí trờn trợn... Tên chỉ huy, mặt vuông chữ điền, hất khẩu súng R14 nòng ngắn, ra hiệu, triển khai chiến đấu. Tụi lính thám báo Pác -Chung- Hy đang chuẩn bị vào nhà.
Tâm bình tĩnh, gỡ quả lựu đạn US màu da láng ra khỏi thắt lưng to bản đeo bên hông. Nét mặt của cô đanh lại, nhìn theo hướng địch ngoài vườn, giọng thì thầm chắc nịch:
          - Ta sẽ đánh bật chúng nó!
Kính ngẩng đầu lên nói nhỏ:
          - Dập lựu đạn xong, cõng Thọ rút ngay ra cánh đồng.
Bất ngờ và đột ngột, hơn chục khẩu tiểu liên cực nhanh R16 của địch bắn như đổ đạn. Tâm trúng đạn chới với, nhưng cô vẫn cố gắng hết sức, nằm đè lên Thọ, che đạn cho anh. Máu của cô y tá âm ấm, chảy xuống cổ, mặt, ngực Thọ.
Kính lao vội lại, định lấy quả lựu đạn của Tâm, ném vào toán địch đã ập vào tới sân. Chúng cuống quýt, bắn xối xả, Kính gục xuống hy sinh, Thọ mê man bất tỉnh, anh nghe tiếng súng văng vẳng - xa xôi từ miền xa thẳm vọng về...
Bốn tháng sau, lính Pác- Chung- Hy chở Thọ bằng ôtô vận tải GMC giao cho lũ ngụy Sài Gòn, tại nhà tù Phú Tài - Quy Nhơn. Trên xe, anh chị em ta vừa bước xuống, thằng thiếu tá Cầu, chỉ huy trưởng trại giam (hắn quê Hà Nội, di cư vào Nam), tên trùm giặc thét lên, sặc mùi khát máu, hận thù:
          - Bay phải chết! Giết hết! Giết sạch!
Tên thượng sỹ Trường, phụ tá an ninh minh hoạ, bợ đỡ quan trên:
 - Đối với bọn này, phải bắn ráo trọi! Không "cải tạo" được.
Dùi cui, củi tạ, báng súng… cấp tập giáng vào những người tù mới đến. Dùi cui bị gẫy, vỡ... máu anh chị em, bà con ta, chảy ướt sũng, đỏ sẫm quần áo. Nga, nguyên nhân viên cấp dưỡng của Bệnh viện huyện Tuy Phước, đứng chắn trước ngực Thọ. Cô che đỡ cho anh không để địch thụi, dọng báng súng, dùi cui vào vết thương xuyên phổi gẫy xương sườn của Thọ - nếu như bị thêm đòn hiểm ác nữa, thì anh khó sống nổi.
Tên thiếu tá Cầu, nghiến răng:
          - Xót thương nhau lắm hả! Ra đây!
Tên thượng sỹ Trường chụp lấy tóc Nga, hắn kéo cô sang bên cạnh, chỉ tay vào Thọ và trao cho anh cây gậy gỗ hình vuông sắc cạnh, to sụ:
          - Thằng xâm nhập này! Hãy cầm lấy và đánh con kia cho tao!
Thọ lắc đầu:
          - Chúng tôi không bao giờ đánh đồng đội!
Tên Trường đá, đạp Thọ ngã qụy - hắn hất hàm, ra lệnh cho Nga:
        - Con kia! Cắn vào tay thằng Bắc Việt này, thật đau, chảy máu!
Trước sự hung hãn của tên thiếu tá Cầu, tên thượng sỹ Trường, ánh mắt của Nga vẫn vững vàng, bình thản nhìn thẳng vào mặt kẻ thù. Cô đưa ra lý lẽ:
         - Người ta không đánh tôi, không làm gì hại con người, sao lại phải cắn họ?
Tên thượng sỹ Trường đuối lý, hắn thẳng tay vụt gậy liên tiếp vào người Nga. Chưa đã tay, tên này còn thọc cả gậy vào “chỗ hiểm" của cô. Mặt Nga trắng bệch, quá đau, cô ngã quỵ xuống sân văn phòng nhà tù.
Tổng tiến công xuân Mậu Thân năm 1968, quân ta giành thắng lợi khắp mọi nơi. Bị thua to trên chiến trường, địch hèn hạ dùng mọi thủ đoạn để trả thù tù binh. Nửa đêm 7/4/1968, cả trại giam Phú Tài đang chìm trong đêm tối. Bất thình lình... “Bung! Bung! Bung!” - Tiếng "Đề ba" cối 81 nổ dồn dập. Tiếng nổ đầu nòng rất gần, đạn cối bay xèn xẹt, rít vào không khí, nổ đanh cấp tập. Chớp lửa đỏ rực, trùm lên toàn bộ khu trại giam, đất rung chuyển mạnh. Mảnh cối phạt vào vách nhà, mái tôn, vì kèo sắt, cột sắt, ở các phòng giam toé lửa như hàn xì điện...
Thọ chỉ kịp lăn nhào từ trên sạp xuống nền nhà. Nghe “bịch” ở phía trên đầu, tưởng là đạn cối rơi xuống, Thọ nằm bẹp, ép người thật sát đất. Hồi lâu, không có tiếng nổ. Thọ đưa tay quờ quạng sờ nhẹ... Giật mình đánh thót! Một cánh tay của ai đó bị mảnh đạn cối phạt đứt, tung lên, rơi xuống ngay cạnh đầu Thọ.
Cối địch vẫn điên loạn bắn vào nhà tù... Sau những giây phút ngỡ ngàng, anh chị em ta bắt đầu phản ứng mạnh mẽ.
Tiếng hô đả đảo đàn áp rầm vang. Tiếng đập tôn náo động, nhưng phải đến khoảng nửa giờ, thì tiếng đạn cối mới ngừng nổ. Nhiều quả đạn cối đã rơi, nổ khắp nơi trong nhà tù (Riêng phòng 14 nơi Thọ ở, sáng hôm sau, anh em đã đếm được 7 hố đạn cối 81mm). Người chết, người bị thương nằm la liệt. Anh chị em xé quần áo, băng bó, cấp cứu cho nhau. Ông già Dực, cán bộ nông hội ấp, quê Sơn Tịnh - Quảng Ngãi, bị mảnh cối lớn vào bụng, ruột trào ra xanh lè. Ông bình tĩnh, nhờ người bên cạnh, vấn cho ông điếu thuốc rê - hút hơi thuốc kéo dài, thật đã, ông Dực dồn hết sức hô to:
          - Đả đảo đế quốc Mỹ! Đả đảo ngụy quyền Sài Gòn!
          - Bác Hồ muôn năm!
Hô khẩu hiệu xong, ông tắt thở.
Trần Xuân Bạch, quê Kiến Thụy - Hải Phòng, buổi tối, trước khi đi ngủ, còn thích thú ngâm đoạn thơ của anh tự sáng tác viết về cô gái sông Vu Da ở Đại Lộc - Quảng Nam:
"Anh gặp em, giữa chặng hành quân
Bên sườn núi, gió lùa tung mái tóc
Bi đông nước, chuyên tay chừng quen thuộc
Chưa kịp nhìn, sao đã thấy thương thương...
Đẹp vô cùng! Em là nữ giải phóng quân
Đôi dép nhó, vẫn trèo non lội suối
Không bắt chước, tiếng chim rừng thỏ thẻ,
Anh thấy em, ca hát giữa mùa xuân..."
Ông nội và bố đều theo nghề thầy thuốc bắc của cụ kỵ truyền cho, Trần Xuân Bạch cũng được thừa hưởng cái gen của ông và bố nên thông minh, học giỏi, đã tốt nghiệp phổ thông, ước mơ của anh, đánh xong Mỹ sẽ thi vào trường Đại học Y khoa, làm bác sỹ nối nghiệp ông cha. Thế mà giờ đây, nhiều mảnh cối sắc, đã phạt vào ngực, hông. Dù đã được anh em xé áo băng bó nhưng máu ở các vết thương của Bạch vẫn chảy ra ướt đẫm khắp người. Anh thở khò khè, đau đớn dướn người lên, thì thào với Thọ:
          - Tao chết đây!
          - Không! Mày không sao cả! Bạch! Bạch ơi!
Thọ ôm lấy bạn, cặp mắt của Bạch mở trợn căng, anh chỉ còn thở hắt ra... rồi hy sinh trong vòng tay của Thọ. Bàn tay phải của Thọ tê dại, máu ra nhiều. Lúc này anh mới biết, mình bị thương.
Trận pháo kích của tụi lính Sư đoàn 22 Ngụy bằng cối 81 mm vào trại giam tù binh Phú Tài - Quy Nhơn, đã giết chết 13 người, làm bị thương 51 người khác.
Năm ngày sau, để che giấu tội ác, địch đã đưa phần lớn tù binh còn sống sót ra nhà tù Phú Quốc. Đào Văn Thọ ra đảo lần đó, nên anh không biết số phận của những người bị thương nặng, địch đem đi sẽ như thế nào?
Độc ác và đểu cáng, khi ra đến sân bay Quy Nhơn. Có tên quân cảnh ác ôn còn cười cợt, nhăn nhở: Chúng mày ra đảo, đến Tết, Việt Nam Cộng hoà, sẽ lại "gửi bánh tét" cho "ăn đủ"... như vừa rồi...
Thọ nghiến răng nguyền rủa: Những kẻ gieo gió ắt gặp bão!
Năm năm, bị đầy ra đảo Phú Quốc, Đào Văn Thọ còn nhiều phen chết đi sống lại bởi các trận đòn thù. Bị nhốt vào chuồng cọp, biệt giam, nhưng niềm tin chiến thắng vẫn luôn chói sáng. Anh liên tục hoạt động, kề vai, sát cánh cùng đồng đội, đấu tranh với địch.                                                                  
                                                                           Bạch Liên
                                                (Bài viết trong tập Hồi ký: Kiên Trung Bất khuất
                                            do Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội xuất bản)
 
NỢ NGƯỜI CHẾT... KHẤT NỢ NGƯỜI SỐNG
(Ghi theo lời kể của ông Nguyễn Văn Coong, xã Hiền Ninh)
 
Tôi bưng cả tô canh rau lang nấu với mắm tôm còn nóng hổi, vừa thổi, vừa húp sì sụp, dùng đôi đũa lùa rau vào miệng, ăn ngấu nghiến ngon lành, đúng là không kịp thở. Thấy vậy, mẹ tôi kêu lên:
  • Nấu cả nồi canh rau lớn, tha hồ cho con ăn. Từ từ thôi… không bỏng miệng, bỏng lưỡi!
Tôi cắn một miếng ớt ăn kèm với canh rau, cay xè miệng, mồ hôi vã ra đầy mặt, cổ, cảm thấy người nhẹ nhõm hẳn lên. Nuốt vội miếng rau to, tôi nói với mẹ:
  • Mười một tháng, lẻ bốn ngày, nay mới được ăn bữa canh rau đã miệng. Ở tù toàn ăn cơm với cá mắm mặn chát, xót cả ruột, nhiều đêm vừa đói cơm, vừa thèm rau. Nóng ruột, con không ngủ được.
Mẹ âu yếm xoa đầu tôi:
- Hết khổ rồi! Ta đang thắng to, Tây đã rút khỏi bốt Đạc Tài, Mán Tép,  Núi Đôi… tháo chạy về Hà Nội. Thôi con ăn nhanh đi, bà con anh em sắp đến chơi rồi!
Nắng tháng bảy vàng sóng sánh như mật ong, nhưng tôi không có cảm giác nóng bức, bởi sáng nay tôi đang còn bị giam cầm tại Thành Đỏ, nhà tù Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc, phòng chật ních người, ngột ngạt, nóng hừng hực, được về nhà tự do, sung sướng như “chim sổ lồng” nên giữa trưa hè, tôi vẫn có cảm giác mát mẻ. 
Tin tôi được địch trả tự do lan nhanh, bà con họ hàng, xóm giềng, bạn bè kéo đến mừng vui. Thầy giáo Tạ Văn Truyền (hương sư, giáo viên dạy trường làng) nhẹ nhàng, nói với bố tôi như lời tâm sự:
  • Cháu Coong thông minh, tiếp thu nhanh, tháo vát nhưng không được đi học, nên mù chữ, tôi tiếc cho cháu quá!
Bố tôi giọng đượm buồn:
  • Thưa thầy, tất cả là do đói nghèo, giặc giã, nên cháu thất học.
Tôi là đội viên du kích, quân báo của xã đội xã Bộ Lĩnh - Kim Anh - Vĩnh Phúc (nay là xã Hiền Ninh - Sóc Sơn - Hà Nội). Tôi tự nguyện tham gia du kích khi mới 12 tuổi, nhưng hoạt động bí mật, vẫn sống tại gia đình bình thường như bao trẻ con ở làng Yên Ninh, ngày ngày đi chăn trâu, cắt cỏ, câu cá… nhưng đó chỉ là “vỏ bọc” bên ngoài che mắt quân địch để tôi hoạt động “bám địch” một cách hợp pháp. Vì có chỉ điểm, tôi bị bắt, nhưng ở tuổi 13, nhà nghèo đói, lao động vất vả nên tôi gầy nhom, nhỏ bé, được cái nhanh nhẹn với bộ mặt tương đối sáng sủa, ngây thơ. Tôi không nhận mình là du kích, địch không có bằng chứng, lại là trẻ con, nên chúng giam tôi tại nhà tù của tỉnh, không có án. Bị giam giữ một thời gian cho tới trung tuần tháng 7/1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, địch phải thả tôi về nhà.
Hòa bình lập lại ở miền Bắc (20/7/1954), đến năm 1957 tôi khai tăng lên một tuổi để được đi bộ đội, vào đơn vị pháo Phòng không 37 ly thuộc Sư đoàn 308. Tôi vừa được huấn luyện, vừa được học văn hóa tại đơn vị, có thầy dậy vào buổi tối hẳn hoi. Hết nghĩa vụ quân sự 3 năm, giải ngũ về làng, tôi có trình độ học lực lớp 2/10.  
Đang làm Phó Bí thư xã Đoàn thì cấp trên điều động tôi đi học văn hóa 6 tháng tập trung. Chỉ tiêu là 2 tháng, phải học xong một lớp với 6 môn: toán, văn, sử, địa lý, sinh vật, kỹ thuật nông nghiệp. Học tập là nhiệm vụ, nên tôi học đến nơi đến chốn, nhiều khi giữa trưa nóng nực, tôi không ngủ, đem chiếu ra vườn trường, ngồi học dưới bóng cây… Có trình độ văn hóa lớp 5/10, tôi về quê làm kế toán cho hợp tác xã nông nghiệp. Với lòng nhiệt tình hăng hái công tác, ước mơ cao nhất đã thành hiện thực: Tôi được kết nạp vào Đảng ngày 03/02/1964, năm sau thoát ly lên huyện công tác. Tháng 12/1972, lúc đó tôi là Trạm trưởng Trạm Thuế Phù Lỗ, máy bay B.52 của Mỹ như bầy thiêu thân lao vào oanh tạc Hà Nội. Một chiếc B.52 trúng tên lửa của ta, cháy sáng rực trên bầu trời, rơi lả tả xuống địa bàn xã Phù Lỗ. Là trưởng trạm thuế, đồng thời cũng là đội trưởng tự vệ, theo đúng phương án chiến đấu đã có sẵn, tôi vung khẩu K44 hô lớn:
  • Tổ trực chiến! Theo tôi đi bắt giặc lái. Các đồng chí khác sẵn sàng cơ động chiến đấu, khi có lệnh!
Đồng chí Trần Đức Phương tổ trưởng trực chiến dõng dạc:
- Báo cáo rõ!
Bốn anh em chúng tôi rời khỏi công sự, lao lên mặt đất, pháo phòng không của ta bắn mãnh liệt, đạn nối đuôi nhau bay đỏ rực trời, đạn bay hết tầm chớp lửa nổ tung sáng chói… Bầy máy bay phản lực của Mỹ lồng lộn.  Mặc xác chúng, anh em chúng tôi vẫn chạy băng băng trên cánh đồng làng Bắc Giã, xã Phù Lỗ để lùng sục và phát hiện thấy mùi khen khét khác thường, nghi là xác máy bay B.52 bị cháy rơi xuống cánh đồng, tôi quay lại, lệnh cho ba đội viên tự vệ triển khai phương án sẵn sàng chiến đấu, không được manh động nổ súng khi chưa có lệnh, quyết tâm bắt sống giặc lái.
Trong đêm, Lê Hữu Ninh - đội viên tự vệ trẻ nhất của tổ đã bật lê khẩu súng trường K44, bình tĩnh hỏi tôi:
  • Nếu giặc lái ngoan cố nổ súng, cách xử lý thế nào hả anh?
  • Nên chỉ bắn uy hiếp và hô lớn: “Hen xơ ấp!” (Giơ tay lên). Nếu địch ngoan cố chống cự thì bắn trả để tự vệ.
Giống như những người thợ săn đang truy lùng ác thú, chúng tôi bám theo mùi khét của xác máy bay B.52 bị cháy. Đây rồi! Giữa cánh đồng Bắc Giã,   trong đêm lờ mờ, chúng tôi nhận ra một vật to sụ. Cả bốn người, đạn đã lên nòng, súng lăm lăm trong tay căng thẳng đến cực độ, trong tư thế sẵn sàng nổ súng. Chúng tôi vừa bò, vừa quan sát mục tiêu, tiến sát tới gần… hóa ra chỉ là khoang lái của pháo đài B.52. Tôi mừng lắm, bấm chiếc đèn pin phòng không  (mặt đèn bịt lại bằng một miếng bìa, ở giữa cắt một lỗ tròn nhỏ, đường kính 5 mm để ánh sáng lọt qua). Tôi leo lên, vào trong khoang lái, soi đèn pin thu chiến lợi phẩm là một chiếc cặp đựng tài liệu với ba khẩu súng ngắn ổ quay.
Tờ mờ sáng, chúng tôi về đến nơi sơ tán, gặp đồng chí Phạm Văn Vui - Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch huyện, đồng chí Nguyễn Thái - Chủ tịch xã Phù Lỗ cùng hơn chục bộ đội, dân quân, đi cùng lãnh đạo truy bắt giặc lái. Có thêm 6 người khách là các nhà báo của Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam. Ai cũng phờ phạc vì mất ngủ, đói mệt. Tôi làm bổn phận của chủ nhà, chạy đến quầy của cửa hàng ăn uống (nơi sơ tán), ký vào giấy tạm ứng, vay luôn được 20 chiếc bánh mỳ nhỏ, nguội lạnh, rồi pha chè, thế là cả chủ lẫn khách cùng ăn uống vui vẻ, đầm ấm, thân tình. Có nhà báo biết tiếng Anh, sau khi lấy tài liệu trong chiếc cặp chiến lợi phẩm mà chúng tôi vừa thu được, xem lướt qua. Anh nói như reo lên:
  • Tài liệu chiến lợi phẩm rất quý! Kịp thời phục vụ chiến đấu!
Chủ tịch huyện Phạm Văn Vui tỏ ra hài lòng, kịp thời biểu dương:
  • Coong khá lắm!
“Điện Biên Phủ trên không” đại thắng, không lâu sau đó, tôi được bầu vào Hội đồng nhân dân huyện, đề bạt lên làm Ủy viên Ủy ban hành chính huyện, phụ trách thu chi, điều hành công tác hành chính của 5 ngành trong huyện: Ngân hàng, Thương nghiệp, Tài chính, Phòng thuế, Quản lý thị trường. Năm 1977, huyện Kim Anh và huyện Đa Phúc sáp nhập thành huyện Sóc Sơn. Tôi được bổ nhiệm chức vụ như cũ, nhưng chỉ khác hơn, hai huyện đã nhập lại thành một nên khối lượng công việc tăng lên nhiều, càng bề bộn. Có những việc tưởng chừng đơn giản, nhưng thực tế chẳng đơn giản chút nào.
Thời bao cấp hàng hóa thiếu thốn trầm trọng, đến cái quan tài mai táng cho người chết cũng là mặt hàng quý hiếm. Các đối tượng chính sách như thương, bệnh binh, bố mẹ, vợ liệt sỹ… khi từ trần, đều có chế độ ưu tiên mua quan tài của cửa hàng vật tư. Chế độ có nhưng chỉ trên giấy tờ, còn thực tế không có hàng. Quan tài bán cho đối tượng chính sách theo giá cung cấp, rẻ như cho, nên càng trở nên áp lực lớn đối với chúng tôi. Mỗi lần có đối tượng chính sách qua đời, thân nhân gia đình đến gặp tôi - “cửa cuối cùng ở huyện” - trình bày, đề nghị được mua ngay quan tài. Tôi tìm mọi cách giải thích nhưng không xong. Đành viết giấy biên nhận “Nợ quan tài”. Còn thân nhân của người chết,  đành phải đi mua quan tài ở thị trường tự do, đắt gấp bội so với giá cung cấp. Năm lại năm, riêng huyện Sóc Sơn đã nợ các đối tượng chính sách (nay là người có công) tới hơn 6.000 quan tài. Ngày nào cũng có người đến “đòi nợ”, có hôm đông tới vài chục người (bao lần rắc rối đã xảy ra, giữa “chủ nợ” với chúng tôi). Không còn cách nào khác, tôi phải vạch “kế hoạch”, trình bày xin ý kiến của Chủ tịch huyện, được ông vui vẻ trả lời:
  • Mình cũng ngán ngẩm lắm về chuyện “nợ quan tài”, nhiều người đến gặp mình, yêu cầu giải quyết. Không được việc cho họ tỏ thái độ “vùng vằng” bực bội. Ông ôn tồn bảo tôi: “Kế hoạch” của cậu cứ thế mà làm!
  • Báo cáo rõ! Có ý kiến của anh, em sẽ thực hiện ngay.
Họp định kỳ giao ban giữa Thành phố Hà Nội với các quận, huyện - Phó Chủ tịch Thành phố Nguyễn Tiến Đức hỏi tôi, khi tôi đến “trình diện”:
  • Chủ tịch huyện Sóc Sơn không đi họp, cử cậu đi thay à?
Tôi gãi đầu ấp úng:
  • Báo cáo anh! Em đi họp thay cho Chủ tịch huyện có được không ạ?
  • Thôi! Đã đến đây rồi thì cậu cứ vào họp.
Tôi cảm thấy hơi mừng mừng, chờ đến lúc được phát biểu, tôi sẽ nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm mà tôi đi họp hôm nay:
  • Báo cáo lãnh đạo Thành phố! Huyện Sóc Sơn không có tiền mua quan tài cho các đối tượng chính sách, nên phải nợ người chết… khất nợ người sống với tổng số cho đến nay lên tới hơn 6.000 quan tài!
Phó Chủ tịch Thành phố Nguyễn Tiến Đức không những không ngạc nhiên mà còn mỉm cười:
  • Huyện Sóc Sơn nhiều đồi núi, trồng nhiều cây lấy gỗ, xẻ ra mà đóng quan tài.
             Tôi đấu lý với Phó Chủ tịch:
  • Báo cáo anh! Núi đồi Sóc Sơn cằn cỗi, toàn là sỏi đá nên chỉ trồng được bạch đàn thân nhỏ, không thể xẻ gỗ ra để đóng quan tài được.
  • Thế thì… lên Ba Vì, mua cây gạo xẻ ra làm quan tài cũng tốt.
             Biết là Phó Chủ tịch nói vui vẻ thông cảm, nhưng tôi vẫn tỏ rõ quan điểm:
  • Thưa anh! Đối tượng chính sách được bao cấp, nhưng huyện Sóc Sơn nghèo, không có tiền thì làm sao mua được gỗ? Nên buộc chúng tôi phải xin kinh phí của Thành phố.
Đến lượt Phó Chủ tịch Thành phố Nguyễn Tiến Đức lại khẽ đưa tay, gãi nhè nhẹ đỉnh đầu, ông hạ giọng:
  • Nợ được, thì cố gắng mà nợ… Vài, ba năm sau có tiền sẽ giải quyết.
Lúc đầu tôi tưởng là ông nói vui… nhưng quả thực thời đó, kinh tế quả thật khó khăn không riêng gì huyện Sóc Sơn mà Thành phố Hà Nội và cả nước cũng nằm trong tình trạng như vậy. Cho đến 3 năm sau (năm 1981), huyện Sóc Sơn mới trả hết nợ… gần chục nghìn cỗ quan tài.
Sau 40 năm thoát ly công tác, đến năm 2000 tôi được Nhà nước cho nghỉ hưu, mỗi lần nhớ lại “chuyện nợ” đậm nét hơn cả là “nợ quan tài”, rồi “nợ” của một Binh đoàn quân đội 15 tấn mắm tôm (có kế hoạch, nhưng chưa kịp nhận hàng thì đơn vị này vượt mấy ngàn cây số, vào chiến trường Tây - Nam chiến đấu, khi được ra Bắc, đơn vị lên làm nhiệm vụ tận nơi biên giới, nhưng vẫn không quên cử người về “đòi nợ” 15 tấn mắm tôm). Tôi và các đồng chí giúp việc lại “chạy long tóc gáy”, đến nhiều tỉnh vùng biển, năn nỉ xin mua mắm tôm, gấp rút chở lên biên giới cho bộ đội và ba lần nợ tương tự, “nợ giò nạc”,  “nợ thịt lợn”, “nợ đường, sữa”… Cũng may là cuối cùng huyện đều xoay sở, trả hết “nợ”, mọi chuyện lại thuận hòa, vui vẻ.
Nay tuổi cao, tôi sống thanh thản giữa làng quê yên tĩnh. Bảng vàng ghi công của UBND huyện Sóc Sơn tặng cùng với Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, đó là nguồn động viên lớn để tôi tiếp tục phấn đấu giữ vững phẩm chất trong sáng, cao đẹp của người đảng viên.                                              
                                                               Nghệ An (ghi)
                                                 (Bài viết trong tập Hồi ký: Kiên Trung Bất khuất
                                            do Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội xuất bản)
ĐI TÌM HÌNH CHA
 (Viết về ông Nguyễn Ích Giáp, quê xã Nam Sơn -
                Người hai lần cứu TBT Trường Chinh)
          Tôi không biết mặt cha!         
          Cha mất khi tôi mới tròn tám tháng tuổi. Được ông bà nội và mẹ hết lòng yêu thương, chăm chút nhưng vẫn không thể khỏa lấp khoảng trống trải, hụt hẫng trong tâm hồn tôi. Ngày còn thơ bé, tôi luôn ước ao được nghe lời dạy bảo, quát mắng nghiêm khắc của cha, thậm chí được hưởng cảm giác đau rát từ những ngọn roi trên tay cha quất xuống mông khi tôi nghịch dại…Và hơn hết, cho tới tận bây giờ, khi mái đầu đã bạc trắng, tôi vẫn thèm được gọi hai tiếng: “Cha ơi!”… Và chưa thôi đi tìm hình Cha.
          Cha tôi tên là Nguyễn Ích Giáp, sinh năm 1919. Theo lời ông nội (Nguyễn Ích Hạp) kể lại, thì quê gốc của gia đình tôi ở tận thôn Thúy Hội, xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (cũ), nay thuộc Hà Nội. Cũng là vì kiếm kế sinh nhai bằng cái nghề gia truyền lò rào (lò rèn), mà gia đình tôi phải đi hết nơi này đến nơi nọ để làm ăn sinh sống.
Đầu những năm 40 (thế kỷ trước), ông nội đưa cả nhà tản cư đến ở nhờ nhà cụ Thống (xóm Đá Vân Xuyên, xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang) để mở lò rèn. Tại đây, gia đình tôi gặp một đồng chí cán bộ cách mạng tuyên truyền giác ngộ. Ông tôi kể rằng, chỉ cần nghe đồng chí cán bộ ấy nói ngắn gọn: “Làm cách mạng đánh đuổi phát xít, giành độc lập, dân ta mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”. Thấy đúng quá, thế là ông nội tôi vận động cả nhà cùng đồng lòng đi theo cách mạng (mãi sau này khi đất nước giành độc lập, mới biết đồng chí cán bộ ấy chính là Tổng Bí thư Trường Chinh).
Ông nội tôi nhớ lại: Đầu năm 1943, Ban Thường vụ Trung ương tiến hành xây dựng An toàn khu II (ATK II) của Trung ương Đảng trên địa bàn các xã giáp ranh 3 huyện (Hiệp Hoà - Bắc Giang, Phổ Yên và Phú Bình của tỉnh Thái Nguyên). Với vai trò và vị trí quan trọng có tính chất chiến lược, ATK II - Hiệp Hòa đóng góp một phần không nhỏ làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Và từ đây, ATK II trở thành “địa chỉ đỏ” gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng, nơi lưu giữ một phần ký ức của dân tộc. Ngày ấy, xóm Đá có 37 gia đình thì 33 gia đình có cán bộ đi lại, ăn ở và đặt cơ quan, lớp huấn luyện và hội họp, nhiều người bị Pháp bắt, tù đày, tra tấn dã man nhưng không hề khai báo. Từ đó phong trào lan rộng ra cả Tổng Hoàng Vân và nhiều làng xã của huyện Hiệp Hòa; rồi lan rộng sang các vùng lân cận như: Ca Sơn Hạ, Ca Sơn Thượng thuộc huyện Phú Bình; Tiên Thù, Thù Dương huyện Phổ Yên (Thái Nguyên). Qua những lần khủng bố của Pháp, phong trào tuy bị tổn thất nhưng vẫn liên tục phát triển.
 Cuối năm 1942, Trung ương mở lớp huấn luyện chính trị tại xóm Đá, Vân Xuyên, tổng Hoàng Vân do đồng chí Trường Chinh trực tiếp giảng bài. Từ cuối năm 1943, trên địa bàn Hiệp Hòa có nhiều lớp huấn luyện quân sự, chính trị, nhiều cuộc họp phổ biến, quán triệt chỉ thị, nghị quyết do các đồng chí Ngô Thế Sơn, Nguyễn Trọng Tỉnh, Lê Quang Đạo, Chu Đốc, Nguyễn Thanh Bình, Hồ Công Dự, Nguyễn Văn Luống… được Trung ương cử về phụ trách và trực tiếp huấn luyện. ATK II không những là địa bàn chiến lược về vị trí địa lý mà nơi đây còn là một địa bàn chiến lược về chính trị với thế trận lòng dân vô cùng vững chắc.
Ông nội khẳng định: “Chưa có trường hợp nào nhân dân ở đây làm lộ bí mật, chưa có trường hợp nào người dân ở đây đầu thú khai báo. Nhân dân ở đây rất tốt, đồng bào ở đây hy sinh tất cả để bảo vệ cách mạng. Riêng cơ sở lò rèn nhà mình vốn là nơi đông người qua lại nên được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ nghe ngóng, thu thập tình hình tin tức rồi báo lại tổ chức. Để che mắt bọn Việt gian, ban ngày thì rèn dao, phát bờ, cày cuốc… nhưng đêm đến là chuyển sang rèn giáo mác, kiếm, dao, mã tấu… cho đội tự vệ của xã và các vùng lân cận. Biết là công việc rất nguy hiểm, nếu chẳng may bị lộ là chết cả nhà nhưng chả ai thấy sợ cả, nhất là cha cháu với chú Giới (em ruột cha tôi) thì hăng hái và gan lì lắm!”.
          Tôi tìm về xóm Đá Vân Xuyên trong tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng. Con đường gập ghềnh này từng in đậm vết chân của cha! Bến sông này bao lần cha xuống tắm! Gốc cây này cha đứng canh cho cán bộ Việt Minh họp.
Nghe tin con trai anh Giáp về, mọi người trong xóm kéo đến chơi chật nhà cụ Thống. Bác Thang Vy, người cùng hoạt động trong đội tự vệ với cha  năm xưa nhìn tôi cười mà nước mắt rưng rưng: “Anh Giáp vào tự vệ rồi được kết nạp Đảng tại xã Hoàng Vân này đấy. Anh ấy trắng trẻo, đẹp trai mà năng nổ, xông xáo, chẳng nề hà bất cứ công việc gì, từ rải truyền đơn, tuyên truyền đường lối cách mạng cho tới nuôi giấu cán bộ, trừ gian diệt ác… đặc biệt tay nghề rèn rất giỏi, dao kiếm do anh ấy rèn hàng trăm con sắc bén lắm, có nhiều con bây giờ vẫn còn được lưu giữ ở nhà truyền thống đấy!”. 
Cụ Thống gật đầu, bùi ngùi nhớ lại: “Người đâu mà gan như cóc tía! Còn nhớ cái đận giặc nó càn Vân Xuyên lùng bắt cán bộ, anh Giáp dẫn bác Trường Chinh chạy xuống bến sông rồi nhanh chóng quay trở về nhà nổi lửa lò rèn, vừa lúc bọn chúng ập đến. Mặc kệ những khuôn mặt cau có hầm hè, mặc kệ những cây súng lăm lăm chĩa vào người, anh ấy vẫn bình thản quai từng nhát búa đều đặn và chính xác, mặt không hề biến sắc; Chẳng có cớ gì để bắt người, chúng đành hậm hực bỏ đi. Bác Trường Chinh nhờ thế mà qua sông thoát nạn. Sau lần ấy, bác Trường Chinh về hoạt động ở tổng Tiên Thù (nay thuộc huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên) còn gia đình anh Giáp (gia đình cháu đấy) cũng chuyển sang Thùa Lâm (Phổ Yên) nên mọi chuyện tiếp theo xảy ra thế nào cháu phải sang bên ấy mà tìm hiểu mới rõ!”.
          Theo chỉ dẫn của cụ Thống, tôi về Phổ Yên, gặp bác Nguyễn Văn Sức (nguyên Chủ tịch huyện Phổ Yên). Bác Sức nắm chặt tay tôi, bồi hồi xúc động:  “Con trai anh Giáp đây ư? Mới ngày nào nghe cha cháu mừng rỡ khoe có con trai vậy mà…Thời gian trôi đi, kỷ niệm về cha cháu vẫn vẹn nguyên trong lòng bác! Đúng vậy, ngày đó cha cháu từ Hoàng Vân chuyển sang, là một trong ba Đảng viên đầu tiên của huyện Phổ Yên này, đồng thời cũng là Trung đội trưởng tự vệ đầu tiên của xã Tiên Phong (huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên). Đội tự vệ với nhiệm vụ chủ yếu là tuyên truyền cách mạng, gây cơ sở, bảo vệ cán bộ thượng cấp… Cha cháu hoạt động tích cực, hăng say, được cấp trên đánh giá cao và rất tin tưởng.
Hồi đó, phong trào cách mạng ở tổng Tiên Thù trước Cách mạng tháng Tám phát triển mạnh mẽ. Đánh hơi thấy tổng Tiên Thù có đội tự vệ, có cán bộ Việt Minh cao cấp nằm vùng, bọn tay sai ở Phổ Yên hoang mang run sợ vội bẩm báo lên tỉnh. Cả mừng, tên Cung Đình Vận, Tỉnh trưởng tỉnh Thái Nguyên khét tiếng gian ác, hung bạo, quyết “giăng lưới” bắt bằng được “mẻ cá lớn”. 
Với ý định đánh úp bất ngờ “không cho Việt Minh kịp trở tay”, cuộc vây ráp, càn quét quy mô lớn của giặc vào tổng Tiên Thù do tên Cung Đình Vận trực tiếp chỉ huy tiến hành vào đêm 13/03/1945. Đang đỏ lửa lò rèn, nhận được tin dữ, cha cháu liền buông búa, bỏ đe, cấp tốc tập hợp đội tự vệ quán triệt: “Cán bộ thượng cấp có vai trò ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với phong trào cách mạng, vì vậy đội tự vệ chúng ta bằng mọi giá phải đưa bằng được đồng chí thoát khỏi vòng vây, vượt sông sang Bắc Giang để tránh sự truy lùng của giặc”. Sau khi phân công người đưa đồng chí Trường Chinh rời khỏi Phổ Yên, cha cháu lập tức dẫn toàn bộ số đội viên còn lại ra chặn bước tiến của giặc.
Với mục tiêu bắt sống đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, hòng đè bẹp phong trào cách mạng ở Phổ Yên (Thái Nguyên) nên chúng tập trung số quân rất lớn lại được trang bị đầy đủ súng ống, đạn dược, trong lúc lực lượng bên ta thì mỏng, vũ khí lại thô, sơ vì vậy chẳng mấy chốc rơi vào thế yếu. Vòng vây của giặc mỗi lúc thêm siết chặt, tiếng súng nổ, tiếng la hét điên loạn của quân địch mỗi lúc một gần. Cha cháu quyết định rút lui để bảo toàn lực lượng. Đến một ngã ba, đột nhiên cha cháu đứng khựng lại, khoát tay ra hiệu rồi nói trong hơi thở gấp gáp: “Không thể để chết một đống như thế này được”. Với thái độ dứt khoát như một người chỉ huy quân đội, cha cháu ra lệnh “Bây giờ tôi chạy hướng bắc đánh lạc hướng bọn chúng, còn lại tất cả mọi người hãy ngược xuống hướng nam để thoát khỏi vòng vây của giặc”. Thấy mọi người có vẻ chần chừ, cha cháu tỏ thái độ dứt khoát: “Tôi là đội trưởng ra quyết định thì cấp dưới phải phục tùng không bàn cãi, đó là nguyên tắc! Đừng lo cho tôi, tôi chạy nhanh lắm sẽ không sao đâu! Hẹn gặp lại!”. Nói rồi cha cháu quay ngoắt người, phóng vút đi hướng về phía quân giặc. Khi đội tự vệ tổng Tiên Thù và đội tự vệ của xã Hồng Vân bên Bắc Giang tập hợp lực lượng, quay lại giải cứu thì nghe tin cha cháu đã bị địch bắt ở trong một vườn sắn sau đó bị chúng đưa về chợ Chã (Phổ Yên) chém đầu!
          Bác Sức ngừng lời, nước mắt trào ra, lăn dài trên gò má. Tôi ôm lấy bác, gục đầu vào vai bác, khóc nức nở như một đứa trẻ. 
          Rất lâu sau đó, không biết tình cờ hay cha phù hộ mà tôi may mắn được gặp cụ Lý Chất (khi đó là Lý trưởng, nhưng làm việc cho ta). Cụ Chất kể lại không thiếu một chi tiết về cái chết của cha: Biết cha tôi là đội trưởng đội tự vệ của tổng Tiên Thù nên khi bắt được, bọn giặc tra khảo, đánh đập hết sức dã man hòng ép cha phải khai ra nơi ẩn náu của Tổng Bí thư Trường Chinh và các đồng chí cán bộ Trung ương. Cha tôi không hé răng nửa lời chỉ nhìn chúng bằng ánh mắt rực lửa căm hờn. Biết không thể khuất phục được cha tôi, trước khi rút quân, bọn giặc đê hèn và dã man đã chém cha tôi thành ba mảnh quăng ra ba nơi (đầu vứt xuống hố đào đất đắp đê, thân ném ở bờ sông, những nơi có nhiều người qua lại nhất). Người dân địa phương xót xa, thu nhặt những mảnh thân thể của cha tôi lại rồi đem chôn cất tử tế.
Kể đến đây, cụ Lý Chất bồi hồi xúc động nhớ lại những câu thơ trong bài “Thăm cơ sở cách mạng” của cố Tổng Bí thư Trường Chinh khi ông trở về thăm xã Tiên Phong (Phổ Yên) năm 1981 đã nói lên nghĩa tình cũng như đóng góp quan trọng của mảnh đất và con người nơi đây đối với cách mạng trong kháng chiến chống Pháp: “Tiên Thù cơ sở năm xưa/ Chở che, đùm bọc, đón đưa ân cần/ Tình dân, nghĩa nước nồng nàn/ Bốn mươi năm ấy muôn vàn nhớ mong”…
          Cha tôi đi xa đã nhiều năm nhưng hình ảnh và câu chuyện về cha thì mãi còn trong lòng dân. Ở nghĩa trang liệt sĩ xã Vân Xuyên (huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang), nghĩa trang liệt sĩ xã Tiền Phong (huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên) và nghĩa trang liệt sĩ xã Nam Sơn (huyện Sóc Sơn) đều có phần mộ của cha tôi (sau này, gia đình tôi bốc mộ, rước về quê hương Tân Hội, huyện Đan Phượng). Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ Phổ Yên” (trang 32, 50) có ghi lại hành động dũng cảm của cha tôi hồi đó.
Sau khi nước nhà giành độc lập, mỗi lần bác Trường Chinh có dịp về căn cứ địa cách mạng Vân Xuyên hay Tiền Phong đều không quên hỏi thăm gia đình đồng chí “Lò rào” Nguyễn Ích Giáp, người chiến sĩ cách mạng kiên cường, dũng cảm và nhắc nhở các cấp chính quyền phải thường xuyên chăm lo đến cuộc sống của gia đình tôi cũng như các gia đình có công với nước. Đặc biệt, nhờ sự quan tâm của bác Trường Chinh mà ông nội tôi được đi tham quan Hà Nội, chụp ảnh chung với Chủ tịch Hồ Chí Minh và dự Quốc khánh 02/9/1962 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử.                                                                  
                                                                         Nguyễn Ích Quyết
                                                       (con trai người du kích Nguyễn Ích Giáp)
 
Em sỐng trung thành, CHẾT THUỶ CHUNG
(Viết về Liệt sỹ Anh hùng Trần Thị Bắc-
người con gái Núi Đôi, quê xã Phù Linh)
 
          Đầu năm 2002, xã Phù Linh  tổ chức trọng thế lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ chống Pháp. Có hai nhân vật xuất hiện trong ngày lễ  gây sự chú ý của nhiều người: Nhà thơ Vũ Cao, tác giả bài thơ “Núi Đôi” nổi tiếng và CCB Trịnh Khanh, nhân vật “Anh đi bộ đội sao trên mũ” trong bài thơ ấy. Song, điều khiến mọi người hết sức ngạc nhiên và bất ngờ là Trần Thị Bắc, nguyên mẫu người con gái Núi Đôi thực chất đã có chồng và chồng cô chính là Trịnh Khanh - một sự thật còn đẹp hơn huyền thoại...
Sau ngày đó, tôi tìm đến nhà ông Trịnh Khanh (chồng Trần Thị Bắc), trú  tại đội 8, xóm Đông, thôn Hậu Dưỡng, xã Kim Chung, huyện Đông Anh (Hà Nội).  
Sinh năm 1930 trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Vệ Linh, xã Phù Linh, huyện Đa Phúc, nay là Sóc Sơn, TP Hà Nội, Trịnh Khanh luôn tự hào về quê hương mình có ngọn núi Sóc, nơi Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời. Năm 1947, mới 17 tuổi, căm thù quân Pháp xâm lược, Trịnh Khanh xung phong đầu quân vào Đại đội Trần Quốc Tuấn (Trung đoàn 121), đơn vị chủ lực chuyên làm nhiệm vụ chiến đấu ở vùng đồng bằng Trung du Bắc Bộ. Mặc dù nay đây mai đó, sống chết luôn cận kề nhưng đời lính lúc nào cũng hồn nhiên, vô tư, vui như Tết.
Trong căn nhà cấp bốn khiêm nhường, ông Khanh mặc dù tính tình cởi mở nhưng lại rất ít nói về mình. Dường như những kỷ niệm của một thời trai trẻ, ông chỉ muốn để cho riêng mình và người đã khuất. Lật giở từng trang trong cuốn nhật ký “EM SỐNG TRUNG THÀNH, CHẾT THỦY CHUNG của Trịnh Khanh - ông viết: ‘Người con gái ấy chiến công không nhiều, mới tham gia kháng chiến vài năm, nhưng cô được mang hình ảnh trong thơ “Núi Đôi”, bởi cô sống đẹp và dám chết khi cần phải hy sinh cho đất nước ở tuổi đôi mươi...” (Trịnh Khanh - Kim Chung, Đông Anh, ngày 15/01/2004).
NGƯỜI CON GÁI NÚI ĐÔI 
Ngược dòng thời gian, ông Khanh bồi hồi nhớ lại:
Trần Thị Bắc sinh năm 1932 (kém ông 2 tuổi), tại thôn Xuân Đoài, xã Phù Linh, huyện Đa Phúc, nay là Sóc Sơn - Hà Nội (sau hoà bình, Xuân Dục Đoài thuộc xã Tân Minh - Sóc Sơn).
Từ đỉnh núi Sóc, nhìn về quê hương cô đẹp như bức tranh hoạ đồ với những con ngòi nhỏ uốn lượn chảy qua, ở giữa cánh đồng lúa chín vàng óng ả, mọc lên hai ngọn núi xanh biếc, có hình thù kích thước giống hệt nhau, khiến  mọi người đều có chung cảm nhận, đó là một cặp núi sinh đôi.
Núi Đôi vốn là một vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, do địa hình nằm ở giữa hai vùng có những con đường huyết mạch chạy qua như, quốc lộ 3 (Hà Nội -Thái Nguyên), đường 131 nối liền tỉnh Vĩnh Phúc qua sông Cầu tới Bắc Giang… nên khu vực Núi Đôi bao gồm các xã: Phù Linh, Tiên Dược, Tân Minh đã trở thành một đầu mối rất quan trọng, ví như một “mắt xích” nối liền giữa Chiến khu Việt Bắc với Thủ đô Hà Nội; giữa các tỉnh đồng bằng, trung du và miền ngược… Vì thế, nơi này thường diễn ra các cuộc giằng co quyết liệt giữa ta và địch. Cũng tại nơi đây, nhiều cơ sở cách mạng đã được nhen lên từ phong trào quần chúng và là nơi nuôi giấu cán bộ Việt Minh hoạt động trong vùng địch hậu. Chỉ trong phạm vi bán kính chưa đầy 3 cây số, bọn lính Pháp và Nguỵ quyền đã dựng gần 20 đồn, bốt kiên cố, riêng ở Núi Đôi có tới hàng chục bốt lớn, nhỏ. Và ngay trên mảnh đất Phù Linh, quân địch đã lập ra “vành đai trắng” nhằm bao vây, chia cắt, cô lập và tiêu diệt các cơ sở cách mạng của ta.
Sinh trưởng trong một gia đình có bố làm xã đội phó, cậu là xã đội trưởng, các bác, các chú đều là cán bộ Việt Minh và bộ đội nên Trần Thị Bắc đã sớm giác ngộ cách mạng, nhất là cô được tận mắt chứng kiến bao cảnh càn quét, cướp bóc, đốt phá, bắn giết hết sức dã man của bọn lính Pháp và Nguỵ quân ngay tại quê mình. Năm 1947, lúc đó mới 15 tuổi, nhưng Trần Thị Bắc đã rất tích cực tham gia hoạt động các phong trào đoàn thể thanh, thiếu niên. Cuối năm 1949, cô xin gia nhập đội du kích, làm nhiệm vụ giao thông liên lạc, tiếp tế và trực tiếp tham gia chống càn, bảo vệ nhân dân trong lúc tản cư. Sau đó cô được cử ra vùng tự do để theo học lớp y tá.
Trần Thị Bắc là con gái cả trong gia đình, sớm biết lo toan công việc, giúp đỡ bố mẹ, lại vừa nhanh nhẹn tháo vát, đẹp người, đẹp nết nên đi đâu hay làm bất cứ việc gì cũng đều trót lọt. Có một lần mẹ cô (bà Nguyễn Thị Tèo) bỗng dưng thấy Bắc sắm đôi quang mới, bà hỏi: “Thế con sắm quang thúng để làm gì…?”, Trần Thị Bắc tươi cười hồn nhiên nói với mẹ: “Con tập đi buôn đấy mẹ ạ!”. Ai ngờ, chính đôi quang gánh đi buôn ấy vừa là để che mắt quân địch và cũng là nơi cất giấu tài liệu mật của cô du kích.
Cũng từ năm 1951, người ta thường thấy ở thôn Đoài có một cô gái trẻ hoà lẫn vào dòng người đi buôn bán ở khắp mọi nơi. Với đôi quang thúng trên vai, cô đi khắp các hang cùng ngõ hẻm. Lúc thì ở trong vùng địch tạm chiếm, khi lại ra vùng tự do. Lúc bán muối, khi bán vải, bán rau… những lần mua bán hàng hoá ấy, chính là lúc cô đang dò la, thu thập tình hình để kịp thời chuyển những tin tức quan trọng ra vùng tự do. Bọn lính Tây và lính Nguỵ trong đồn đều quá quen thuộc cô, nên không hề có chút nghi ngờ, ngược lại chúng còn rất quý mến cô. Có những tên chỉ huy khi vào làng càn quét, đã tìm đến nhà Trần Thị Bắc và có ý ngỏ lời muốn lấy cô làm vợ bé. Lợi dụng tình thế và cơ hội “ngàn năm có một” ấy, Trần Thị Bắc đã rất linh hoạt, chuyển ngay sang hình thức làm công tác binh, địch vận đối với những tên này. Bằng những lời lẽ khôn khéo đầy tính thuyết phục, Trần Thị Bắc đã thành công trong việc vận động một người cai trong hàng ngũ lính Nguỵ và một lính Pháp tự động mang súng đầu hàng cách mạng. Nhờ có những thông tin rất quan trọng do Trần Thị Bắc cung cấp, mà một số cơ sở cách mạng không bị lộ. Đặc biệt là tránh được những tổn thất to lớn đối với số cán bộ của ta đang hoạt động ở trong vùng địch hậu. 
CHÚNG TÔI CƯỚI NHAU ĐƯỢC 2 NGÀY...
Năm 1950, đơn vị tôi (Trịnh Khanh) đóng quân ở gần khu sơ tán của Trường Y tế tỉnh Vĩnh Phúc thuộc xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn (ngày nay). Một hôm, Trần Nhu, quê ở Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), nét mặt hớn hở đến gặp tôi và bảo:
- Cậu có một cô gái đồng hương xinh lắm, hiện đang theo học lớp y tá gần đây. Nếu muốn “cưa” bọn mình sẽ giúp.
Không ngờ câu nói vui đó lại trở thành sự thật.
Sau vài lần gặp gỡ, hẹn hò, họ mới biết rằng cả hai đều là người cùng xã. Chàng trai ở thôn Vệ Linh (dưới chân Núi Sóc), còn cô gái ở thôn Xuân Dục Đoài (dưới chân Núi Đôi). Tình yêu quê hương, đất nước và lòng căm thù giặc sâu sắc đã giúp họ cùng chung một chí hướng cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà đơn vị và đoàn thể giao cho. Ông Khanh bùi ngùi xúc động:
Từ lúc quen biết cho đến gần hai năm sau (1952), tôi mới gặp lại Trần Thị Bắc khi cô ấy tiếp tục theo học lớp y tá của tỉnh Vĩnh Phúc. Chúng tôi đã ngỏ lời hẹn ước với nhau khi nào thắng trận ở Bắc Hồng (Đông Anh, Hà Nội) sẽ về tổ chức đám cưới. Thời gian đó, Bắc thường sang chơi, nấu cơm cho cả mấy anh em trong đơn vị và được mọi người quý mến gọi là “nàng dâu” của tiểu đoàn. Nhất là Chính trị viên đại đội Nguyễn Viết Bát luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện để chúng tôi thường xuyên được gặp nhau. Đó là những khoảnh khắc tuy ngắn ngủi nhưng mang đầy ý nghĩa đối với cả tôi và Bắc, vì đã hiểu được thế nào là niềm hạnh phúc của những người yêu nhau.   
Sau lần ấy, Trần Thị Bắc quay về Phù Linh tiếp tục hoạt động du kích trong vùng địch hậu, còn tôi thì lao vào những trận đánh mới. Cuối năm 1953, trước lúc bước vào trận đánh tiêu diệt quân địch ở xã Bắc Hồng (Đông Anh) Chính trị viên Nguyễn Viết Bát ghé sát tai tôi nói: “Đánh xong trận này, tớ sẽ giải quyết cho cậu ba ngày ra vùng tự do để cưới vợ”. Vốn đã từng làm công tác văn phòng ở đại đội chuyên “nói có sách, mách có chứng”, tôi liền rút giấy bút ở trong túi ra và tự tay thảo vội bức “công văn” ngắn gọn: “Đại đội Trần Quốc Tuấn đồng ý giải quyết cho đồng chí Trịnh Khanh về quê tổ chức lễ cưới với cô Trần Thị Bắc, đề nghị gia đình và chính quyền địa phương tạo điều kiện giúp đỡ để đồng chí Khanh hoàn thành nhiệm vụ. Ký tên...”. Thảo xong bức thư, tôi đưa ngay cho chính trị viên duyệt và anh Bát cầm bút ký liền.
Không ngờ, sau trận đánh ấy, anh Bát đã vĩnh viễn ra đi chẳng bao giờ trở lại. Phần vì tiếc thương người chính trị viên đại đội và cũng là để thực hiện ý nguyện của anh mong muốn cho tôi và Bắc sớm được nên vợ, nên chồng, tôi quyết định xin phép đơn vị ba ngày về thăm gia đình. Khi đưa cho Bắc xem lá thư có chữ ký của Chính trị viên Nguyễn Viết Bát, em im lặng không nói năng gì mà hai hàng nước mắt cứ trào ra... Tôi hiểu tâm trạng của Bắc lúc đó vừa thương xót anh Bát, vừa kính phục tấm lòng đức độ của người chỉ huy luôn quan tâm vun đắp hạnh phúc cho mọi người. Tôi và Bắc đã quyết định xin phép gia đình hai bên để tổ chức đám cưới. Bắc trở lại vùng địch hậu gặp mẹ và thật bất ngờ, ngay hôm sau, mẹ Bắc đã quẩy đôi quang gánh nặng, một bên là cậu em út Trần Văn Nhuận, một bên là bánh kẹo lên vùng tự do (xã Hồng Kỳ) để làm lễ cưới. Đêm tân hôn hôm đó, vợ chồng tôi được mọi người quan tâm chuẩn bị cho một ổ rơm lót đệm lá chuối khô trong một túp lều nhỏ trên sườn đồi. Hai ngày sau, chúng tôi lại phải chia tay nhau. Ngờ đâu, đó là cuộc chia ly vĩnh viễn...”.
EM SỐNG TRUNG THÀNH, CHẾT THỦY CHUNG
Đầu năm 1954, thực dân Pháp tăng cường phòng thủ ở Điện Biên Phủ, đồng thời đánh phá quyết liệt, nhằm ngăn chặn chi viện của ta cho chiến trường Điện Biên. Để trấn an tinh thần cho bọn lính Pháp và Nguỵ quân ở phía sau, chúng ráo riết tổ chức các cuộc vây bắt, lùng sục ở khắp mọi nơi. Vào thời điểm này, Trần Thị Bắc cùng một lúc nhận được hai quyết định của trên: một là về tỉnh để tiếp tục đi học lớp y tá, hai là về làm công tác quân báo tại huyện đội Đa Phúc (nay là Sóc Sơn) với lý do khả năng cô đã bị lộ, nên cấp trên có ý định chuyển vị trí công tác để bảo đảm an toàn tính mạng cho Bắc. Ông Lê Văn Túc, cán bộ cách mạng thôn Xuân Dục Đoài, xã Phù Linh, cũng là tổ trưởng quân báo của huyện Đa Phúc lúc đó kể lại trận chiến đấu cuối cùng của nữ du kích Trần Thị Bắc:     
…Hôm đó là ngày 16/3/1954 (sau ba ngày quân ta mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ). Vào lúc 22 giờ đêm, sau khi đã bố trí xong lực lượng chuẩn bị cho trận mai phục quân địch ở chùa Táo, Trần Thị Bắc nhận nhiệm vụ đưa đoàn cán bộ khoảng 30 người từ vùng địch hậu Lương Châu ra “vành đai trắng” Phù Linh. Cô đi trước thăm dò, vừa đến chân Núi Đôi, không may rơi vào ổ phục kích của địch. Chúng bắt và bịt miệng cô lại với mưu đồ phục, chờ để bắt sống toàn bộ số người đi sau. Quyết không để cán bộ của ta rơi vào tay giặc. Biết được âm mưu nham hiểm của địch, Bắc đã chống cự quyết liệt. Bất thình lình cô lao vào tên quan Pháp và túm ngay vào chỗ hiểm, dùng hết sức mình bóp chặt lấy bộ hạ của hắn. Bị đòn đau bất ngờ, quên cả việc lớn, tên quan Pháp kêu rống lên như con bò bị chọc tiết. Một tên lính lê dương đứng cạnh đó vội lôi Bắc ra và dùng súng xả trọn một băng vào ngực cô. Thấy động, đoàn cán bộ của ta đã rút lui an toàn tuyệt đối. Còn Trần Thị Bắc đã anh dũng hy sinh, máu chảy loang đỏ và se đọng lại trên vầng ngực tròn căng của cô. Những viên đạn tàn ác của kẻ thù vẫn còn găm nguyên ở đó. Từ trên Núi Đôi, quân địch dùng súng moóc - chi - ê bắn vòng quanh xác Trần Thị Bắc; bất chấp nguy hiểm, anh em trong đội du kích đã vượt qua vòng vây lửa đạn của địch và đưa thi thể cô tới nơi Cầu Cốn - Vệ Sơn để làm lễ truy điệu và mai táng cô tại đó trong lòng tiếc thương vô hạn của đồng chí, đồng đội và bà con nhân dân xã Phù Linh.
Ba tháng sau ngày cưới, cùng một lúc ông Khanh nhận được ba lá thư, một của đồng đội, một của vợ (Trần Thị Bắc) nhắn là đã gửi cho ông chiếc đồng hồ và chiếc áo len, lá còn lại là của gia đình báo tin Trần Thị Bắc đã anh dũng hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ. Ông Khanh lặng người đau đớn, hai dòng lệ cứ trào ra, rơi xuống làm nhòe những dòng chữ trong bức thư. Thế rồi cũng đến ngày hòa bình lập lại, ông mới có dịp trở về làng tìm mộ vợ.
Một chiều đông năm 1955, dân làng thấy một anh bộ đội thơ thẩn bên gò Cầu Cốn. Người em họ của liệt sĩ Trần Thị Bắc nhận ra anh rể của mình đã òa lên khóc: “Chị Bắc nát ngực, máu đọng khô, nhiều viên đạn còn nằm trong đó”. Mặc dù chưa gặp và cũng chưa được chứng kiến tình yêu đôi lứa của anh bộ đội Cụ Hồ năm nào với liệt nữ Núi Đôi, nhưng nhà thơ Vũ Cao đã cảm nhận được những thổn thức từ trái tim của người chiến sĩ lúc ấy: “Mới đến đầu ao tin sét đánh/ Giặc giết em rồi dưới gốc thông/ Giữa đêm bộ đội vây Đồn Thứa/ Em sống trung thành, chết thủy chung”. Năm 1956, Trần Thị Bắc được công nhận là liệt sỹ.
Để ghi nhớ công lao, sự hy sinh oanh liệt của nữ du kích, ngày 26/4/2018, Chủ tịch nước ký Quyết định truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng LLVTND cho liệt sỹ Trần Thị Bắc - người con gái Núi Đôi anh hùng mà dòng tên em đã khắc vào vách núi.
                                                                                     
                                                                               Ngô Văn Học
                                                           
Tình ngƯỜI Kim Anh VỚI sân bay Đa Phúc
(Theo lời kể của ông Hồ Ngọc Thu-                                                                            Chủ tịch tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh Phú)
 
        “Vĩnh Phúc là một tỉnh trung du, dân số không đông, chủ yếu làm nông nghiệp”...
        Tôi không bất ngờ về cách vào vấn đề của ông nhưng thấy hơi lạ. Yêu cầu đặt ra là những đóng góp về sức người, sức của mà tỉnh Vĩnh Phúc (sau đó là Vĩnh Phú), đặc biệt là nhân dân hai huyện Kim Anh, Đa Phúc; những bài học rút ra từ khâu xây dựng lực lượng, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chi viện sửa gấp sân bay do bị địch đánh phá trong những năm chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Vậy mà ông lại “tranh thủ” giới thiệu về địa phương mình đã từng gắn bó, đã từng đảm nhiệm chức vụ Bí thư rồi Chủ tịch tỉnh hơn chục năm liền. Giọng nói nhẹ nhàng, điềm tĩnh, từng câu từng chữ rạch ròi, khúc triết, ông đã vẽ ra trước mắt tôi một cuốn phim sống động về một tỉnh thuần nông thuộc vùng trung du Bắc Bộ, nơi chiếm không ít diện tích là đất rừng, đồi núi và đất bạc màu. Các khuôn hình của những thước phim phản ánh nội dung chính cứ từ từ hiện ra, nối nhau, trôi qua các mốc lịch sử phát triển của tỉnh...
Những năm cuối thập niên 50, năm đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, tình hình kinh tế của tỉnh dần đi vào ổn định. Từ lúc ban đầu cả tỉnh chỉ có một xưởng cơ khí ngày mới hòa bình (1954), một vài huyện đã phát triển thêm được những cơ sở nhỏ. Toàn tỉnh đang thực hiện và dần hoàn tất công cuộc hợp tác hóa. Các hợp tác xã nông nghiệp ra đời thay thế cho những tổ đổi công. Phong trào chung đang phát triển rất khí thế. Cũng chính trong thời điểm này, chỉ thị của Trung ương khôi phục, sửa chữa một số sân bay trên Miền Bắc để tiếp tục đưa vào khai thác, triển khai sử dụng được khẩn trương hơn. Trong đó có những sân bay được xây dựng mới.
Sau quá trình nghiên cứu, khảo sát của các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia, Nhà nước quyết định chọn đặt vị trí sân bay mới, tiêu chuẩn cấp 1 tại một số xã nằm trong huyện Kim Anh, thuộc Vĩnh Phúc. Lúc đầu với danh nghĩa sân bay Thủ đô, nhưng thực chất đây là một sân bay quân sự.
Theo tôi được biết, quân đội đã tuyển chọn và cử một số đoàn gửi đi nước ngoài học về không quân, trong đó có cả học lái máy bay và thợ máy. Có đoàn đã học gần xong chương trình bay sơ cấp, chuẩn bị chuyển loại lái máy bay phản lực. Do đó, theo nhu cầu, vừa sửa chữa, nâng cấp các sân bay hiện có do Pháp để lại, việc xây dựng sân bay mới được thực hiện hết sức khẩn trương. Sau khi nhận chỉ thị của trên về việc huyện Kim Anh được chọn vị trí cho sân bay mới mở, tỉnh vừa thấy tự hào, vừa thấy lo. Phấn khởi thật nhưng chúng tôi đều hình dung được khó khăn sẽ rất nhiều. Từ nguồn lực, từ kinh nghiệm, từ những công việc tối thiểu liên quan, trong chúng tôi chưa một ai kinh qua, chưa một ai được tiếp xúc thực tế, dù chỉ một lần.
          Chọn vùng đất phía Đông Nam của tỉnh Vĩnh Phúc để xây dựng một sân bay quân sự (vào cỡ lớn nhất so với các sân bay hiện có trên Miền Bắc), đây cũng là tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Thực tế lúc này, chúng ta chưa có lực lượng không quân. Về hàng không nói chung, ngoài Trường Hàng không Cát Bi, ngoài một số máy bay cũ thu được của Pháp sau hòa bình, ta cũng mới chỉ quản lý và sử dụng thêm một số chiếc AN 2, IL 14, trực thăng Mi 4 do Liên Xô viện trợ, mấy chiếc Li 2 Trung Quốc giúp. Sau đó có thêm một số chiếc Trener của Tiệp khắc là máy bay huấn luyện. Với vị trí này, sau khi xây dựng xong, đây sẽ là sân bay trung tâm. Phía Bắc có sân bay Kép, phía Tây có sân bay Yên Bái, phía Nam có sân bay Gia Lâm, và xa hơn về phía Đông là sân bay Cát Bi, sân bay Kiến An. Các sân bay này vừa tạo thế vững chắc bảo vệ Thủ đô Hà Nội, vừa hỗ trợ, bảo vệ lẫn cho nhau. Các sân bay đó do Pháp xây dựng để lại, chủ yếu là sân bay cấp 3, ta đầu tư sửa chữa, nâng cấp thành sân bay cấp 2. Còn sân bay xây dựng mới tại Kim Anh, Vĩnh Phúc đạt tiêu chuẩn sân bay cấp 1.
          Còn một điều, chắc cũng sẽ có nhiều người nghĩ tới (có thể chỉ là suy luận), đó là vùng này được coi là vùng đất địa linh. Chạy dài từ khu vực Thanh Nhàn, nơi có đền thờ Thánh Gióng, vòng qua cánh đồng Thạch Lỗi, cắt chéo qua Quang Tiến, Mai Đình thuộc Kim Anh, qua Tiên Dược, Phù Linh của Đa Phúc và dừng ở chân núi Sóc là hai vệt song song những hố chuôm kích cỡ như nhau, khoảng cách đều nhau. Nhìn từ trên cao xuống, cảm giác như có lực lượng siêu nhiên nào đó đánh dấu vị trí cẩn thận rồi đào lên giữa những mảnh ruộng xanh tiếp nối nhau (Những ô chuôm này vẫn còn tồn tại trong thời kỳ Hợp tác xã nông nghiệp hoạt động, ở một số địa phương, đặc biệt là cánh đồng Thạch Lỗi, Điền Xá, Đông Lai, Quảng Hội...). Các cụ già thường hay kể lại cho con cháu, đấy là vết chân ngựa của Đức Thánh Gióng, sau khi đánh tan giặc Ân, trên đường trở về dừng nghỉ lại một chút ở quả đồi phía Tây thôn Thanh Nhàn rồi dong ngựa về núi Sóc. Và từ đỉnh núi này, Ngài đã cùng ngựa bay thẳng lên Trời. Trong kho tàng văn học Việt Nam, điều này cũng được nói tới ở phần truyền thuyết. Chọn đặt sân bay ở đây, phải chăng cũng có một ý tứ sâu xa, từ vùng đất được coi là huyền thoại này, chúng ta sẽ được chắp cánh bay cao, bay xa với sức mạnh Phù Đổng Thiên Vương. Để rồi từ truyền thuyết trong dân gian sẽ biến thành sức mạnh vô biên trong nhiệm vụ bảo vệ bầu trời và công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước.
          Nhận thức rõ tầm quan trọng trong vấn đề chọn vị trí sân bay, Tỉnh ủy tổ chức nhiều cuộc họp chuyên đề, kể cả cho từng ban, ngành, đoàn thể... 
Tựu trung lại, vẫn xoay quanh làm thế nào để thực hiện tốt nhiệm vụ trên giao. Từ Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch tỉnh đến Trưởng ty, ban, ngành, các đồng chí trong Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh ủy viên đều nhận thức rõ và quyết tâm cao để thực thi tốt nhất trách nhiệm của mình. Trong tất cả núi công việc cần làm, đầu tiên phải là công tác tư tưởng và thực hiện di dân để có đất làm sân bay. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh phân công cụ thể cho Đảng bộ và Huyện đoàn Kim Anh phải luôn theo sát, giúp đỡ các cơ quan, đơn vị xây dựng cho đến khi xong. Tỉnh sẽ trực tiếp chỉ đạo, điều hành, các huyện khác tích cực hỗ trợ tối đa, đặc biệt là huyện Đa Phúc, bởi có một số bộ phận của sân bay được xây dựng nằm trong địa giới của huyện.
Thời gian này, anh Kim Ngọc đã được điều về làm Bí thư Tỉnh ủy, tôi là Phó Bí thư kiêm Chủ tịch tỉnh được phân công cùng anh Lê Tu (Trưởng Ty Công an) xuống chi bộ xã Bộ Lĩnh (sau đổi tên thành xã Quang Tiến nằm trong địa giới xây dựng sân bay). Thời kì này xã chưa có Đảng bộ. Số đảng viên còn ít, rải rác ở các thôn, có thôn chỉ một, hai đảng viên. Chúng tôi tập hợp chi bộ, các tổ đảng, phổ biến cho mọi người, thăm dò tình hình tư tưởng của dân, sau đó bắt đầu xuống các xã, các thôn ở trong diện phải di dời.
Đúng như dự đoán. Các thôn, xã thuộc diện phải di dời, bà con đều thắc mắc. Điều đó hoàn toàn đúng. Bởi lẽ trong chiến tranh, họ không tiếc thứ gì, không nề hà việc gì. Cần là đi, cần là chuyển. Tài sản trong tay phần lớn hầu như không có. Chủ yếu nhà tranh, vách đất tạm bợ. Bây giờ thì khác rồi. Hòa bình đã nhiều năm. Cuộc sống đã dần ổn định. Con cái được đi học. Đại đa số gia đình đều có ruộng, có trâu… bây giờ đến chỗ mới lạ phải làm lại từ đầu, biết đến lúc nào mới được ổn định. Nhưng những điều ấy chỉ là thứ yếu. Cái chính, quan niệm phải rời bỏ nơi quê cha đất tổ đang giằng xé tâm trạng trong mỗi con người, vẫn là điều họ quan tâm nhiều hơn cả.
Không nói ra song các lãnh đạo đều nhận rõ là nhân dân rất tốt, đặc biệt là dân các xã, các thôn của huyện Kim Anh thuộc diện phải chuyển. Hỗ trợ của trên hầu như không có, phương tiện vận chuyển không có, trong khi đó nhiều thôn phải chuyển tới chỗ ở mới cách xa cả chục ki-lo-met. Vậy mà mọi việc vẫn vô cùng thuận lợi. Cán bộ vận động không mất nhiều thời gian, không có sự ép buộc, hay mệnh lệnh. Nhưng như thế không có nghĩa là mọi việc đều xuôn sẻ. Khó khăn nhất là thôn Nội Bài, xã Mai Đình.
Đây là một vùng công giáo toàn tòng. Có nhà Xứ cho cả vùng, trong nhà thờ còn chôn ba ngôi mộ “tử vì đạo”. Thời chiếm đóng, Pháp đánh chiếm Phù Lỗ, dùng Nội Bài để đánh ra các vùng xung quanh. Dân ở đây phản đối rất mạnh. Chúng tôi đã tìm gặp vị cha xứ tên là Tất. Ông là người tương đối lịch lãm, tỏ ra hiểu biết và nắm bắt mọi vấn đề rất nhanh. Cha Tất hoàn toàn đồng ý với chủ trương di chuyển dân đến chỗ ở mới để nhường đất cho Nhà nước xây dựng sân bay. Ông nói và ông đã thực hiện những điều cam kết, giúp cho đoàn vận động làm công tác tư tưởng với giáo dân hoàn thành nhiệm vụ. Ấy vậy mà vẫn có những phần tử phản động, công khai tuyên truyền “ông Cha này ăn phải bả của Việt Minh”?
Phải nói đây là một cuộc di dân lịch sử thành công ngoài mong đợi của tỉnh. Trong quá trình di dân, cả một vùng rộng lớn đến những địa bàn mới, tỉnh và huyện đa phần đều gặp thuận lợi. Tất cả diễn ra theo đúng kế hoạch đã định. Không hề có sự chống đối, phá phách. Không xảy ra những chuyện lợi dụng, trộm cắp, cướp giật. Chúng tôi suy nghĩ, sao dân thời ấy tốt thế, chuyện di dời thời ấy lại dễ đến thế. Nhân dân tận tình, hy sinh, cần cái gì sẵn sàng đóng góp cái đó, không xâm phạm vào của công, rất trong sáng, không vụ lợi. Cán bộ xã thì cơm nhà, việc nước. Từ trên xuống dưới, tinh thần làm việc khẩn trương, nghiêm túc, đoàn kết và trách nhiệm.
Đến cuối năm 1960, mọi việc trên giao cho Vĩnh Phúc, tỉnh đã hoàn thành. Toàn bộ phần mặt bằng sau khi di dời dân được bàn giao cho công trường xây dựng  (mang tên Công trường 120). Năm 1961, toàn công trường bắt đầu hoạt động, máy móc, nhân lực, cát sỏi, xi măng, sắt thép,..  được tập kết đầy đủ, cùng với lán trại được dựng lên. Nhiều đường mới bắt đầu được mở. Trong cuộc họp chuyên đề về phục vụ sân bay của Tỉnh ủy được dành phần lớn thời gian. Tỉnh ủy giao cho Ủy ban hành chính và các ngành kinh tế của tỉnh tính toán dành một phần trong kế hoạch để phục vụ cho công trường. Công trường yêu cầu gì, phải có, đầy đủ, kịp thời, nhanh chóng.
Tầm chừng sau hơn 2 năm, việc xây dựng sân bay cơ bản hoàn thành. Tôi còn nhớ một chuyện rất ấn tượng, đó là lần mấy chục cán bộ tỉnh được… đi tàu bay. Hôm đó, vào buổi sáng, Tỉnh ủy đang họp, có đồng chí cán bộ ở sân bay lên, xin gặp. Bí thư Kim Ngọc cho nghỉ họp để tiếp. Đồng chí đó báo cáo việc xây dựng sân bay coi như đã xong, lên để cảm ơn tỉnh và mời các cán bộ tỉnh xuống thăm và đi thử chuyến bay. Anh Kim Ngọc rất vui, nói là việc làm sân bay cũng là nhiệm vụ của tỉnh. Và rồi anh quyết định hoãn họp. Tỉnh ủy, Ủy ban, các ban ngành (chủ yếu cấp trưởng) kéo xuống sân bay.
Số người đông, phải bố trí làm hai chuyến, mỗi chuyến chừng trên hai chục người. Chiếc Dakota có hai bánh trước và một bánh đằng sau (chắc là máy bay Li-2), sau khi cất cánh, vòng một vòng về phía Hà Nội rồi hạ cánh. Lúc xuống, vẫn có những đồng chí sợ, nhưng đa phần đều thích thú mặc dù ai cũng cảm thấy “xóc”, thậm chí có người còn thấy nó… “hơi chòng chành”.
Có sân bay nằm trong vùng địa lý của tỉnh, chúng tôi xác định, ngoài việc cung cấp nhu cầu thiết yếu phục vụ theo chỉ đạo, công tác kết hợp chặt chẽ, bảo vệ các mặt được hết sức quan tâm. Đúng là chiến tranh nhân dân. Tin ở dân. Dựa vào dân. Phong trào toàn dân là lực lượng bảo vệ được phát động. Nổi bật trong vấn đề này là hai huyện Kim Anh, Đa Phúc.
Trong công việc, trong lãnh đạo, chỉ đạo, chúng tôi cũng có những sơ xuất, thiếu xót, đã dẫn đến có trường hợp gây nên sự hoảng loạn, sợ hãi trong nhân dân, dù chỉ là chốc thoáng. Đó là vào ngày 6/8/1964, một ngày sau khi đế quốc Mỹ gây ra “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” leo thang đánh phá miền Bắc. Hôm đó những biên đội máy bay phản lực đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam được lệnh trở về căn cứ trên Đất Mẹ. Cả nước vào thời chiến, có những điều tưởng như đơn giản nhưng lại là bí mật. Máy bay của ta, người của ta lái, bay về sân bay quê hương ta, vậy mà không được thông báo, phổ biến, tuyên truyền cho nhân dân được biết. Không có tiếng kẻng báo động, tự nhiên thấy có hai tốp, mỗi tốp bốn chiếc máy bay cánh chéo (MiG.17) bay rất thấp, rít xé gió lướt nhanh trên bầu trời nối nhau vụt qua, nhiều người dân cả một vùng lớn dọc từ huyện Tam Dương, Lập Thạch, qua Bình Xuyên, Yên Lãng, rồi Kim Anh, Đa Phúc, thậm chí cả hai thị xã Vĩnh Yên, Phúc Yên, hoảng sợ, chạy toán loạn. Có người lao vội xuống hầm trú ẩn. Đến lúc không thấy có tiếng bom đạn nổ, tiếng súng bắn lên, lại thấy máy bay quay lại, từng chiếc một, bay thấp hơn, tốc độ chậm hơn thì mọi người mới hiểu - Máy bay của ta đã về và đang hạ cánh xuống sân bay quê mình.
Chiến sự ngày càng lan rộng trên Miền Bắc. Máy bay trinh sát của địch đã nhiều lần xâm phạm vùng trời Kim Anh, Đa Phúc và khu vực lân cận, những nơi bố trí nhiều các trận địa pháo phòng không, các trận địa tên lửa bảo vệ sân bay. Công việc sơ tán các đơn vi, các bộ phận của bộ đội không quân được triển khai. Theo tình hình nhiệm vụ, Trung đoàn Không quân 921 dù sơ tán, phân tán ở nhiều nơi nhưng phải đảm bảo được yêu cầu chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu cao nhất, triển khai nhanh nhất, cả bộ phận phi công, máy bay trực chiến, bộ phận chỉ huy, dẫn đường bay, bộ phận thợ máy, các bộ phận phục vụ công tác chuẩn bị bay… Nghị quyết về chuyên đề này, tỉnh triển khai rất nhanh. Hai huyện Kim Anh, Đa Phúc được giao nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát cụ thể từng khu vực, từng địa điểm xung quanh sân bay, xác định những vị trí phù hợp. Tôi với anh Lê Tu đi cùng các cán bộ hai huyện và cán bộ sân bay để kiểm tra, thống nhất rồi phân công các địa phương làm tốt công tác tư tưởng cho nhân dân.
Điều mà chúng tôi hoàn toàn bất ngờ, không những không hề thắc mắc, không hề đòi hỏi một chút gì, một yêu cầu gì, những người dân khu vực các bộ phận sân bay sơ tán đến còn sẵn sàng chặt cây, phá vườn làm đường, đào ụ cho xe máy, các thiết bị công trình, vật tư, khí tài các loại… đưa vào. Không những thế, có gia đình còn như tị nạnh vì không được bố trí bộ đội đến ở nhà mình. Nhiều vạt đồi, nhiều mảnh ruộng, nhiều bãi cây bạch đàn đang lên xanh tốt được ủi đi, san phẳng rồi lu lèn, đặt tạm bê tông tấm, ghi lỗ. Những chiếc MiG được trực thăng cẩu đến sơ tán. Hằng ngày, các cụ phụ lão, các cháu thiếu nhi chặt lá đưa về ngụy trang. Có khi lá đưa đến nhiều còn phủ lên cả những tấm dù ngụy trang. Đặc biệt, gần như các đơn vị không phải cắt cử người bảo vệ, canh gác. Địa phương, những người dân ở đây thay nhau làm công việc này, rất tự giác, rất chu đáo. Trong những năm phải sơ tán, các bộ phận, các đơn vị sân bay đều tuyệt đối an toàn, cả người và vật tư, trang thiết bị. Quan hệ quân dân, quan hê với địa phương luôn tốt đẹp, sáng trong.
 Sự khốc liệt và ác liệt của chiến tranh không còn chỉ xuất hiện trên đài, trên báo. Người dân Đa Phúc, Kim Anh được chứng kiến hiện hữu trên bầu trời quê hương mình những trận không chiến, thậm chí ngay trên đỉnh sân bay dù chỉ trong khoảng thời gian rất nhanh. Những loạt đạn, những vệt tên lửa từ máy bay phóng ra. Những quầng lửa như bó đuốc màu da cam từ trên trời rơi xuống. Những chiếc dù bung ra. Trong những chiến thắng huy hoàng của bộ đội không quân tại đây, chúng ta cũng có những tổn thất không nhỏ. Nghĩa trang liệt sỹ xã Tân Dân huyện Kim Anh, xã Tiên Dược, xã Trung Giã, xã Phù Linh huyện Đa Phúc ôm ấp, chăm lo những phi công Trung đoàn 921 yên nghỉ trong lòng đất mẹ.
Đầu năm 1967, đặc biệt là ngày 2 và ngày 6/1, Trung đoàn Không quân 921 bị tổn thất nặng. Tỉnh tổ chức đoàn cán bộ xuống thăm, động viên. Tại khu sơ tán của Ban chỉ huy Trung đoàn, các cán bộ Quân chủng Phòng Không - Không quân kịp thời chỉ đạo các bộ phận chuyên môn, cơ quan tham mưu, quân báo, dẫn đường rút kinh nghiệm, tìm nguyên nhân, kịp thời chấn chỉnh, tổ chức lại các kíp chiến đấu. Trung đoàn trưởng Trần Mạnh giọng trầm buồn nói với tôi mà như nói với chính mình - Anh Luyện (Tư lệnh Không quân Đào Đình Luyện) chắc cũng trao đổi với các anh. Mà tại sao chúng tôi lại không nhận ra nhỉ? Hôm trước (ngày 2/1/1967) lúc 13 giờ 50 phút, bốn chiếc vừa cất cánh lên khỏi sân bay, chưa kịp lấy độ cao thì đã bị bọn F4 nấp ở khu Tam Đảo lao ra, phóng tên lửa. Chưa ra khỏi mây, chưa kịp tập hợp đội hình, độ cao chưa đạt, tốc độ còn nhỏ, máy bay không thể cơ động, biên đội đã không tránh được tên lửa địch. Cả 4 chiếc MiG trúng đạn. Bốn phi công nhảy dù an toàn. Vậy mà hơn hai tiếng sau, vào hồi 16 giờ, tôi tiếp tục cho biên đội thứ 2 cất cánh. Vẫn như kịch bản cũ. Máy bay ta chưa kịp lấy độ cao, bọn chúng đã lại từ Tam Đảo lao vào. Biên đội trưởng Nguyễn Ngọc Độ nhảy dù an toàn. Được lực lượng phòng không mặt đất hỗ trợ, ba máy bay vòng về sân bay hạ cánh.
Nhìn những giỏ trứng, những giỏ hoa quả tươi, những lồng gà… bà con gửi tới, chúng tôi càng không cầm lòng được. Chúng tôi cảm thấy như mình có lỗi với nhân dân, với địa phương, với cấp trên. Ngày 6/1/1967 lại bị tổn thất tiếp. Một phi công hy sinh (?).
          Theo chỉ thị của trên, MiG 21 tạm thời dừng xuất kích. Đau lắm chứ anh - Giọng người Trung đoàn trưởng như đanh lại - MiG 21, con át chủ bài của Không quân nhân dân Việt Nam, niềm tự hào của Quân chủng Không quân. Có lẽ nào … - Bỗng nhiên ông chùng xuống - Nhưng, phải thế thôi. Cần phải thế!
          Điều ông nói “cần phải thế” ấy, hơn một tháng sau tôi mới được biết tường tận, cũng chính từ ông. Trong cuộc họp rút kinh nghiệm mà ông từng nói tới, các vấn đề được tập trung thảo luận nhiều nhất, xoáy sâu nhất, trước tiên là về phía địch. Bọn Mỹ đang có âm mưu mới gì đây? Chúng thay đổi thủ đoạn chiến thuật ra sao? Về phía ta, phải chăng thiếu sắc sảo, thiếu nhạy bén trước diễn biến mới của tình hình? Có cay cú, có “nóng mắt” trong việc đưa lực lượng vào trận, đối phó với địch? Sau cuộc họp ít ngày, qua tổng hợp tài liệu, tin tức, kể cả tin từ tình báo quốc gia, mọi vấn đề mới dần được sáng tỏ. Do không quân mình hoạt động ráo riết, có hiệu quả ngày càng lớn trong thời gian qua, Mỹ đã quyết định mở một chiến dịch “quét sạch bầu trời” đánh thẳng vào không quân ta, đồng nghĩa với việc hủy diệt sân bay quân sự Đa Phúc.
          Không quân Mỹ huy động lực lượng lớn F.4 được trang bị hiện đại chuyên làm nhiệm vụ tiêm kích, tổ chức huấn luyện hơn một tuần ở Thái Lan. Khi bay vào Miền Bắc, chúng bay theo đội hình cường kích, tốc độ chậm và ít di chuyển. Chúng ta không phát hiện ra. Nhất là chúng bay thành nhiều tầng, máy bay ta lên, ở tầng nào cũng gặp chúng. Chúng chiếm độ cao ưu thế. Chúng ta nắm địch không chắc, chỉ phát hiện được một hướng, trong khi chúng vào từ ba, bốn hướng. Bên cạnh đó, thời tiết lại rất phức tạp, mây dày, vừa xuyên mây lên, chưa kịp tập hợp đội hình, ta bị tấn công bất ngờ. Tổn thất không tránh khỏi.
          Cũng chính trong những ngày chúng tôi cảm thấy nặng nề nhất sau những mất mát - Người chỉ huy Trung đoàn Không quân 921 nói với tôi mà như đang tâm tình với chính người thân của mình - thì một món quà vô giá, một nguồn động viên cực kỳ to lớn đến với chúng tôi, những người lính không quân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và chúc tết Trung đoàn vào đúng Mùng Một Tết Nguyên đán Đinh Mùi (ngày 9/2/1967). Cùng đi với Bác còn có Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh và nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, của Quân đội. Từ những lời động viên, dạy bảo của Bác, ngay tại sân bay, bên cạnh những chiếc MiG 21, là nguồn lực rất lớn cho chúng tôi. Bác, Đảng, Nhân dân đã chắp cánh cho chúng tôi. Những người mẹ hiền hàng ngày, hàng giờ nâng cánh cho chúng tôi bay cao, bay xa bảo vệ bầu trời Tổ quốc.
          Tôi im lặng. Điều này tôi cũng biết, nhưng không cụ thể. Ngay từ đầu tháng 2 (những ngày giáp Tết Âm lịch Đinh Mùi), tỉnh cũng nhận được chỉ thị từ trên, trong những ngày đầu năm mới, sẽ có đồng chí cán bộ Trung ương đến thăm và chúc Tết bộ đội không quân ở sân bay Đa Phúc. Tỉnh ủy, Ủy ban lập tức triển khai công tác chuẩn bị mọi mặt, đảm bảo an ninh toàn khu vực. Anh Lê Tu xuống huyện Kim Anh trực tiếp chỉ đạo. An ninh địa phương được tăng cường thêm lực lượng của trên về, kiểm tra, rà soát một khu vực rộng lớn xung quanh sân bay. Từ ngã ba Phù Lỗ, dọc theo Quốc lộ 2 đến Thanh Nhàn, từ Phù Lỗ đến ngã tư Đa Phúc theo Quốc lộ 3, từ ngã tư Đa Phúc qua sân bay chạy về ngã ba Kim Anh… các chiến sĩ an ninh lặng lẽ làm việc. Trong khi đó, nhân dân địa phương đang khẩn trương thu hoạch hoa màu, tranh thủ cấy cho xong trước Tết. Đất nước có chiến tranh, lại là những ngày giáp Tết, có xuất hiện thêm một vài chiến sĩ công an, bà con nghĩ cũng là bình thường. Phải đến nhiều ngày sau, khi đài, báo đưa tin Bác Hồ về thăm sân bay, không phải chỉ có nhân dân Kim Anh, Đa Phúc, cả những cán bộ tỉnh nhiều người cũng mới được biết…
          Và … - Tiếng Trung đoàn trưởng Trần Mạnh vẫn trầm trầm, chậm rãi - từ những điều này, chúng tôi nhìn ra cốt lõi của vấn đề…
Vâng. Các anh đã nhìn ra. Tỉnh, và nhân dân Kim Anh, Đa Phúc cũng đã được nhìn thấy. Gần như một điều kì diệu trong những tháng ngày sau đó. MiG-21 của Trung đoàn tiếp tục xuất kích chiến đấu và liên tục bắn rơi máy bay các loại của địch. Theo thông tin tỉnh nhận được từ các cán bộ sân bay, chỉ trong ít tháng năm 1967, nhất là mấy tháng cuối năm, không quân ta chiến đấu và chiến thắng không quân địch với hiệu suất cao, tỉ lệ lên tới 4 - 1. MiG-21 của Trung đoàn đã bắn rơi 47 máy bay địch trong khi ta tổn thất là 12 chiếc.
Bọn địch cay cú, điên cuồng tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để bằng mọi giá phải khống chế được những chiếc MiG của không quân nhân dân Việt Nam. Và điều mà quân đội, không quân, điều mà chính quyền, nhân dân địa phương xung quanh sân bay đã tính đến, đã có sự chuẩn bị, thực sự xảy ra. Liên tiếp vào những ngày cuối tháng 10/1967, không quân Mỹ dùng lực lượng lớn đánh phá hủy diệt các sân bay, trong đó sân bay Đa Phúc bị nặng nề hơn cả.
Chiều 24, sáng 25, chiều 25, sáng 26/10/1967, hàng trăm máy bay Mỹ thay nhau trút bom xuống khu vực sân bay Đa Phúc. Hầu hết các vị trí trên sân bay đều bị bom. Riêng đường băng, đường lăn bị đánh trúng tới 99 quả. Tôi là Chủ tịch tỉnh trực tiếp phụ trách mảng hỗ trợ, chi viện ứng cứu sân bay. Trong các đêm cuối tháng 10 hầu như đêm nào tôi cũng có mặt cùng lực lượng sửa gấp sân bay của tỉnh (mà gánh vác chính là các xã thuộc hai huyện Kim Anh, Đa Phúc). Mặc dù đã có sự chuẩn bị, tập dượt nhưng ngay đêm đầu tiên đã có sự lộn xộn, tổ chức thiếu khoa học, không chặt chẽ. Lượng người huy động đến đông, cán bộ phụ trách của huyện, xã còn lúng túng chưa quen việc, chưa nhạy bén. Phối kết hợp giữa lực lượng sửa gấp sân bay của bộ đội và địa phương còn chưa đồng bộ. Tư tưởng cán bộ địa phương luôn có sự…”dôi ra”. Nhân công huy động dôi ra so với chỉ tiêu giao, phương tiện lao động cũng dôi ra. Đêm đầu tiên (24/10/1967), số bom trúng mục tiêu ít, chỉ có ba quả trúng đường băng, lượng người huy động đông, nước thiếu, cần thùng gánh nước, các xã cho người về đưa vào số lượng nhiều gấp hàng chục lần. Chổi quét thiếu, yêu cầu khoảng 300 chiếc thì có ngay hàng nghìn chiếc các loại. Đêm hôm sau thì đỡ hơn, tổ chức tốt hơn mặc dù công việc nhiều hơn.
          Đêm 24/10, phải giải quyết một số công việc ở tỉnh, tôi cùng anh Dật, Tỉnh đội trưởng và anh Lê Tu, Trưởng Ty Công an xuống sân bay muộn hơn một chút. Đoàn tiền trạm của tỉnh chúng tôi giao cho anh Mài, trưởng Ban Công binh xuống trước, phối hợp với các anh sân bay, sắp xếp, tổ chức, điều hành lực lượng chi viện, ứng cứu sửa gấp sân bay các huyện đưa vào. Cán bộ sân bay cũng như cán bộ địa phương đều còn lúng túng, bị động, thiếu linh hoạt. Mọi hoạt động chưa đồng bộ. Lực lượng đông nhưng công việc không chạy, ùn ứ.
          Đêm hôm sau tốt hơn. Các cán bộ điều hành cũng như lực lượng trực tiếp lao động phần lớn đã nắm bắt được tinh thần nhiệm vụ, đã dần hình thành được nề nếp trong công việc, hiện tượng chồng chéo, chỗ thừa chỗ thiếu giảm hẳn. Guồng quay đã tương đối trơn chu.
          Các anh sân bay, đặc biệt là những bộ phận chuyên môn, rất vất vả. Nhưng những cái đó không là vấn đề gì với những người lính. Điều mọi người quan tâm, lo lắng cho các anh ấy là sự nguy hiểm, là cái chết đến bất cứ lúc nào. Bom bi, bom nổ chậm, bom từ trường rải rác khắp nơi, vương vãi khắp nơi. Hàng nghìn con người đang đứng chờ ở các khu tập kết, chờ hiệu lệnh vào làm. Có nghĩa là chờ hiệu lệnh từ các anh ấy - những người lần mò, lăn lộn trong đêm tối để rà phá bom, để đánh dấu vị trí bom, để thu lượm, gom nhặt bom bi, dọn mặt bằng cho lực lượng sửa gấp thực thi công việc.
          Trong số này, tỉnh cũng đóng góp một phần đáng kể. Đó là anh Nguyễn Văn Mài, trưởng Ban Công binh của tỉnh. Đêm đầu tiên anh đã làm rất tốt công việc cùng các cán bộ chuyên môn sân bay. Đêm thứ hai, anh còn có sáng kiến táo bạo và thực sự nguy hiểm. Anh đã cùng một cán bộ công binh không quân ngồi trên chiếc “mô tô ba” chạy dọc đường băng, đường lăn, đường kéo dắt máy bay để kiểm đếm, đánh dấu vị trí từng quả bom nổ chậm. Chiến tranh, giữa cái sống, cái chết nhiều khi không có ranh giới. Cán bộ, chiến sĩ quân đội ta và cả những con người bình thường trong nhân dân chúng ta, chấp nhận hy sinh một cách tự nguyện, trong sáng, vô tư, không đắn đo, tính toán.
          Đêm sau, thấy bom rơi vào các khu vực trọng yếu nhiều hơn, đặc biệt là đường băng và trước sự đăm chiêu, lo lắng của các cán bộ sân bay, tôi hỏi anh Trần Mạnh, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 921:
          - Trường hợp dùng đường lăn, MiG.21 có thể cất hạ cánh được không anh?
          - Được anh ạ - Anh Trần Mạnh đáp lại với giọng trầm trầm, chậm rãi - Trong thời gian học bay, chúng tôi đã có những bài bay ứng dụng như vậy.  Cất cánh thì không có vấn đề gì lớn, nhưng hạ cánh sẽ vất vả hơn.
          - Liệu có thể sửa gấp đường lăn trước để dùng tạm được không anh. Tôi thấy phần đường lăn bị hư hỏng ít hơn.
          - Chúng tôi cũng đã tính tới điều đó và đã báo cáo lên Quân chủng. Hiện vẫn đang chờ ý kiến chỉ đạo của trên. Khó là ở chỗ, bom nổ hất đất cát vương vãi khắp nơi, ảnh hưởng rất lớn đến việc cất, hạ cánh của máy bay. Lúc cất cánh, chiếc lên sau có thể chờ gió thổi tan bụi do động cơ chiếc bay trước tạo nên. Nhưng lúc trở về hạ cánh, có thể chờ, cũng có thể không chờ được vì phụ thuộc vào lượng dầu còn lại trên máy bay. Đấy là chưa kể tới vấn đề các vật ngoại lai bị động cơ máy bay hút vào.
          Rồi cấp trên cũng đồng ý. Phần đường lăn được ưu tiên tập trung làm. (Hơn một tuần sau, tôi được thông báo, từ chính đường lăn được sửa chữa gấp này, hai chiếc MiG.21 đã sử dụng để xuất kích chiến đấu. Đó là biên đội Nguyễn Hồng Nhị - Nguyễn Đăng Kính, hai phi công dạn dày kinh nghiệm của Trung đoàn. Các anh đã bắn rơi hai máy bay Mỹ trong trận này và trở về hạ cánh an toàn trên chính cái đường lăn nhỏ bé và bụi mù mịt đã được lực lượng nhân dân sửa gấp tập trung hồi phục vào những đêm trước đó).
Sau những đêm đầu, một số khâu còn chệch choạc, tỉnh và các huyện liên quan tổ chức họp rút kinh nghiệm, đề ra các biện pháp cụ thể hơn, tỉ mỉ và sát thực hơn, kể cả việc bồi dưỡng ăn đêm cho lực lượng tham gia sửa gấp (Tôi nhớ đêm 25/10, tầm gần ba giờ sáng, mọi người đều thấy đói, tôi và anh Tu đánh xe ra huyện Kim Anh. Cửa hàng ăn uống huyện đưa ngay 2 cô nhân viên cùng gần 3000 chiếc bánh rán vào bán phục vụ. Thế mà bán hết). Các địa phương đã có sáng kiến hợp tác xã sẽ bồi dưỡng bằng công điểm cho các đội chi viện sửa gấp sân bay hằng đêm.
        Chỉ tiêu cho từng xã đã có số lượng cụ thể. Đội quân chi viện ứng cứu sửa gấp sân bay thường trực là bao nhiêu, dự bị là bao nhiêu. Những xã ở xa được tập kết ăn nghỉ tại các xóm ngay gần sân bay trong suốt thời gian phục vụ. Việc đi lại đỡ vất vả hơn, đến địa điểm làm việc nhanh hơn. Các xã đều có tổ công binh nhân dân, hàng năm được huấn luyện theo từng đợt do Ban Công binh tỉnh tổ chức, kết hợp sự giúp đỡ của một số cán bộ chuyên môn của sân bay. Sơ đồ phân công ứng cứu sửa gấp sân bay được giao cụ thể cho từng xã. Các loại hiệu lệnh báo động cũng được thống nhất, phổ biến rộng rãi trong nhân dân các địa phương. Căn cứ vào loại kẻng nào làm công việc gì, lực lượng, phương tiện huy động cho phù hơp. Những thành viên thuộc đội xung kích bám trụ, bám điểm trong các khu vực sân bay được hợp tác xã tăng từ 20 đến 50% công điểm so với ngày công lao động. Ngành thương nghiệp của tỉnh, của huyện Kim Anh, Đa Phúc ưu tiên tổ chức phục vụ đầy đủ, chu đáo, kịp thời. Các xưởng cơ khí tập trung sản xuất thêm dụng cụ công binh, xẻng, cuốc. Về tổ chức, Huyện ủy phụ trách trưởng ban sửa gấp, Huyện đội và đại diện sân bay đảm nhiệm phó ban. Các ngành khác là ủy viên.
        Thời gian đó, tỉnh cũng đã tính đến việc sơ tán một số thôn xóm trong vùng nguy hiểm khi địch đánh phá sân bay, nhưng nhân dân quyết bám trụ, vừa làm chỗ dựa cho bộ đội, vừa giải quyết khâu hậu cần tại chỗ, phục vụ, ứng cứu mọi mặt được kịp thời.
        Tháng 2/1968, Vĩnh Phúc và Phú Thọ hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú. Anh Kim Ngọc là Bí thư, tôi vẫn làm Chủ tịch. Thời kỳ này, tỉnh chuyển lên Phù Linh (thuộc Phú Thọ cũ), công việc tổ chức, chỉ huy, điều hành lực lượng chi viện, ứng cứu sửa gấp sân bay được giao hẳn cho hai huyện Kim Anh và Đa Phúc. Tháng 4/1972, tôi rời khỏi Vĩnh Phú. Trong đợt 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm ấy, đỉnh điểm sự tàn phá ác liệt của bom đạn hủy diệt đế quốc Mỹ trút xuống hai huyện Đa Phúc, Kim Anh. Lưới lửa phòng không của ta dày đặc, tên lửa ta rạch đỏ bầu trời, máy bay Mỹ đánh khu vực sân bay Đa Phúc hoảng sợ, quăng bừa bom để tháo chạy. Phần lớn bom rơi vào khu dân cư, đồng ruộng. Những vệt bom rải thảm B.52 quét qua bao xóm làng của huyện Kim Anh. Những cái tên Ninh Kiều, Tân Dân, Thanh Nhàn, Đại Phùng, Xuân Mai… nhức nhối trên các mặt báo, đài phát thanh. Có xóm Ninh Kiều, xã Tân Dân bị bom san gần như xóa sổ (may mà dân đã sơ tán ra đồng). Có thôn mất đến một phần ba. Người chết. Tài sản bị phá hủy. Nhưng nhân dân không hoang mang. Tuy không còn ở tỉnh, không trực tiếp tham gia công việc, tôi vẫn theo dõi sát sao, vẫn nắm bắt được tình hình. Hai huyện Kim Anh, Đa Phúc đã làm rất tốt công tác chi viện, ứng cứu sửa gấp sân bay trong những ngày này. Các anh ấy bấy giờ gặp khó khăn hơn trước nhiều bởi ban ngày máy bay chiến thuật các loại ném bom, ban đêm B.52 rải thảm và F-111 hoạt động. Công việc sửa gấp vẫn trôi chảy. Có báo động, tạm ngừng, sơ tán ra xung quanh, chụp vội những thùng các-tông, những chiếc thúng lên những ngọn đèn măng-xông, đèn bão. Tắt ngay máy phát điện, đèn ô tô, xe máy công trình. Hết báo động lại làm. Cứ thế cho đến đêm 29/12. Bước sang năm 1973, việc sửa chữa, làm mới, nâng cấp sân bay được giao lại cho các cơ quan, đơn vị chuyên môn. Lực lượng chi viện, ứng cứu sửa gấp sân bay của hai huyện Kim Anh, Đa Phúc đã hoàn thành nhiệm vụ. Một nhiệm vụ không kém phần nguy hiểm, vất vả, khó khăn nhưng lại lặng thầm. Báo, đài, sách vở… và truyền thông nói chung vẫn còn khiêm tốn, thậm chí chỉ thoảng qua khi đề cập đến.
Vâng! Đấy là chiến tranh nhân dân, những sự đóng góp, hy sinh thầm lặng thời nào cũng có. Chi viện, ứng cứu sửa gấp sân bay bị tàn phá trong thời chiến, đâu chỉ có Kim Anh, Đa Phúc. Nhân dân Lạng Giang của Hà Bắc, nhân dân Kiến An, Hải Phòng, nhân dân Yên Bái, Thọ Xuân, Thanh Hóa, Anh Sơn, Nghệ An, Gát (Quảng Bình)… cũng góp sức người, sức của không tính đếm, trong sáng, vô tư. Cũng như những dòng người gồng gánh, xe đạp thồ trong đoàn dân công vận tải cho chiến dịch Điện Biên. Cũng như nhân dân miền Trung sẵn sàng dỡ nhà lát đường cho xe chi viện chiến trường. Đó là những đóng góp không nhỏ cho chiến thắng huy hoàng của dân tộc Việt Nam trước mọi thế lực ngoại xâm, trước mọi kẻ thù.
                                                                                 
                                                                                    Trần Hợi (ghi)
                                                                   
Đêm trên đường băng
                                       (Viết về Đại úy Nguyễn Văn Mài
nguyên Trưởng ban Công Binh Tỉnh đội Vĩnh Phúc)
          Chiếc “mô tô ba” chuẩn bị lăn bánh, chợt có tiếng người con gái réo rắt:
          - Còn cái điếu cày này anh ơi!
          - Cô nào đấy. Lúc này mà còn đùa được à - Anh cán bộ Huyện đội quát lên, vẻ bực tức.
          - Ờ. Đồ gia bảo đấy. Cứ giữ hộ. Tí tớ quay về - Mài nói với lại trong lúc chiếc mô tô đã tăng ga.
          - Nhưng mà nó hôi mù ấy. Giời ạ! - Giọng lảnh lót của cô gái vẫn như cố cuốn theo những bánh xe đã lăn trên đường.
          - Cậu bám theo mép đường băng, đi chậm thôi, Sắc ạ. Quét rọi đèn cả hai phía. Chú ý phân biệt bom bi với những viên đất đá vương vãi. Thận trọng một chút. Cứ bình tĩnh. Không có vấn đề gì đâu.
          Nói vậy nhưng chính Mài cũng hơi hoang mang. Phải chăng do sự bột phát đột xuất hay do mình quá liều lĩnh, bất chấp tất cả chỉ để muốn thể hiện mình. Anh thừa biết, phía trước mặt ba người là bom bi rải cùng đất đá trên đường, bom từ trường, bom nổ chậm bị kích hoạt bất cứ lúc nào. Không như chiều qua, chỉ có ba quả bom trúng vào khu vực đường băng. Hôm nay, hai đợt đánh phá trong ngày, với hơn bốn tiếng đồng hồ, số bom các loại máy bay Mỹ ném xuống gấp ba bốn lần. Bom nổ chậm chúng trút xuống nhiều hơn. Mục đích là khống chế, cản trở công việc chúng ta khắc phục hậu quả bị tàn phá. Chúng đã tính đến cả những điều này.
          Chiếc xe lạng lách chầm chậm trên nền đường lổn nhổn đất đá, thỉnh thoảng nhảy chồm chồm làm phần thuyền Mài ngồi bềnh hẳn lên. Ánh đèn pha quét qua quét lại một cách cần mẫn. Vòng tránh hố bom thứ sáu, chưa kịp quay trở lại đường bang thì Thật - cán bộ công binh không quân ngồi phía sau lái xe dướn hẳn người lên :
          - Dừng lại. Đừng tắt máy!
          Chiếc xe đứng khựng trên vạt cỏ. Thật nhảy xuống.
          - Phía trái, anh Mài. Ngay sát đường băng!
          Theo vệt đèn pha quét, Mài cùng Thật tiến lại vị trí vừa phát hiện, nhẹ nhàng, thận trọng.
          - MK-82. Có xử lý luôn không?
          - Cứ đánh dấu lại. Đi tiếp đã - Mài nói rồi quay lại xe - Được bao nhiêu rồi Sắc?
          Sắc nhìn đồng hồ xe :
          - Mới hơn 800 mét.
          - Cho vào được rồi đấy. Sắc báo cho họ đi!
          Sắc cho xe quay lại, vẫn dừng một chỗ nháy đèn pha sáu lần hướng về khu tập kết. Đó là tín hiệu an toàn trong phạm vi 600 mét chiều dài theo dọc đường băng, lực lượng thi công sửa gấp của bộ đội và dân địa phương có thể triển khai công việc.
          Chiếc xe tiếp tục đi. Vẫn lạng lách, dừng, tiến. Đột nhiên ba quầng lửa nối nhau lóe lên phía cuối đường băng kèm ba tiếng nổ đinh tai. Rồi tất cả rơi vào im lặng. Ba người vẫn ngồi trên xe, tai ù đi.
          - Một quả hẹn giờ. Hai quả kia bị kích nổ - Mài nói nhưng chắc chỉ mình anh nghe được tiếng của mình.
          - Đi tiếp chứ? -Thật buông lời hỏi mà như hét lên.
          Có hai bóng người từ đằng sau lao đến:
          - Các thủ trưởng bảo chúng tôi tới xem các anh có ai việc gì không?- Một chiến sĩ nói trong hơi thở gấp gáp.
          - Không. Chúng tớ không sao. Ba chân kiềng vẫn còn nguyên vẹn, chắc chắn. Các cậu quay về đi. Báo cáo với lãnh đạo cứ tiếp tục cho triển khai công việc. Đi nhé!
          - Các anh cẩn thận và an toàn nhé!
          Chiếc xe tiếp tục lăn bánh. Lại lạng lách, lại nhảy chồm chồm trên mặt đường bê tông, đường đất, dò dẫm rồi cũng đến cuối đường băng. Hơn ba mươi vị trí được đánh dấu, cắm tiêu.
          - Bây giờ vòng lại, qua chỗ đài chỉ huy, qua khu xưởng định kỳ rồi vào đường Tam Đảo. Anh Mài có cần đổi chỗ không? - Thật quay người về phía thuyền xe.
          - Yên tâm. Lưng tớ tốt lắm. Không biết đi trên mặt trăng nó có thế này không. Kinh quá!
          - Trên mặt trăng không có bom nổ chậm. Dừng lại! - Đang nói đột nhiên Thật hét lên.
          Chạy tới nơi, cả Thật, cả Mài đều ngỡ ngàng. Hai quả bom găm chếch vào vạt cỏ, ngay sát nhau. Nếu bay thêm mét nữa, chắc chắn sẽ va đập với nhau.
          - Cứ đánh dấu đã. Chỗ này anh Hoàng Hải sẽ xử lý.
          - Hoàng Hải là ai? - Mài hỏi.
          - Người của Đoàn Công binh 28. Anh ấy là chuyên gia phá bom từ trường. Loại siêu đấy.
          Trên đường quay lại, chiếc « mô tô ba » cũng chẳng chạy nhanh hơn được là bao. Tránh hố bom, ụ đất, tránh những nơi chính họ đã đánh dấu vị trí bom nổ chậm, bây giờ còn phải tránh thêm những xe ô tô, xe lu, xe ủi, xe cải tiến, thậm chí tránh cả những đôi quang gánh trên vai đang theo chân các cô gái đan đi đan lại san lấp hố bom. Đông. Ồn ào.Vui vẻ. Những bóng điện lẻ loi chạy bằng máy phát. Những cây đèn măng xông, đèn bão, những bó đuốc, ánh đèn xe ô tô quét qua quét lại… tạo góc trời huyền ảo trong đêm. Sự náo nhiệt của phần công trường này trái ngược với sự nhẹ nhàng, lặng lẽ, đơn lẻ và thận trọng của các bộ phận gom nhặt bom bi, bộ phận tháo gỡ bom nổ chậm Mài gặp trên đường.
          - Khát quá. Vào kia xem có nước không rồi đi tiếp - Mài nói rồi nhìn đồng hồ - Thế mà đã gần 1 giờ đêm rồi.
          Xe dừng lại cạnh đám đông gần sân đậu máy bay. Ba người tiến đến dãy  thùng mấy cô gái đang chực quảy đi.
          - Này mấy cô bán nước ơi.
          - Ai mà nói năng thiếu lập trường thế.
          Người vừa cắt ngang lời Mài đã ngay lập tức reo lên, lảnh lót - A, anh Điếu Cày. Anh ấy sống trở về rồi chúng mày ơi.
          Mài và hai đồng đội lọt thỏm trong vòng quây của đám đông. Các câu hỏi ném vào dồn dập. Không rõ ai hỏi. Và cũng không kịp trả lời những câu hỏi chồng át, đan cài vào nhau. Họ quên cả việc mấy anh bộ đội đang khát, đang cần nước uống. May mà một cán bộ huyện đội xuất hiện đúng lúc.
          - Này các cô. Người ta gọi nước loạn lên kia kìa.
          Những cánh áo nâu, áo gụ hồi nãy quây vào rất nhanh, bây giờ tản ra còn nhanh hơn. Cô gái có cái giọng lảnh lót trước lúc quảy đôi thùng đi còn kịp dúi vào tay Mài chiếc ấm nhôm Liên Xô nóng rẫy:
          - Nước vối tươi các mẹ mới nấu đấy. Đậm đặc lắm. Chúng em đi đây. Các anh cẩn thận và an toàn nhé!
          Còn lại ba người với chiếc xe. Ấm nước đang nóng. Ca, bát không có. Nhìn theo vẻ ríu rít của các cô gái, vẻ tấp nập của đám đông đang đổ đất, san nền, Mài không còn nghĩ đến mình đang rất khát. Chiến tranh. Nó đã lôi những con người kia đến với nó. Đáng ra, có thể gặp họ ở những giảng đường, những xưởng máy, bến tầu hay trong chiếc áo blu một bệnh viện nào đó…
          - Sao họ gọi anh là anh Điếu Cày, anh Mài? - Tiếng Thật cắt ngang dòng suy nghĩ của Mài.
          - À… Đơn giản là tớ đã chuyển loại. Tớ thì nghiện mà thuốc lá thì hiếm, khó mua. Đã không ít lần tớ phải mua 5 hào hai điếu Trường Sơn.
          - Trường Sơn có ba hào một bao. Bọn dân phe nó bóp anh kinh thế à?
          - Phe nào. Mua ở cửa hàng nhà nước hẳn hoi đấy.
          - Anh nói thế nào chứ. Có cho thêm tiền họ cũng không dám bán như thế.
          - Thế thì cậu không biết thật. Có gì đâu. Đã lâu rồi, thuốc lá hiếm, phân phối ít, lượng thịt các cửa hàng ăn uống được cung cấp hạn chế, bánh phở không có, họ bán thứ mì mướp (loại mì sợi cán từ gạo, thêm vào vài ba miếng mướp xào), mì không người lái (mì xuông, không có thịt), mỗi một bát được kèm theo 2 điếu thuốc lá Trường Sơn, giá 5 hào. Tớ không đói, nhưng thèm thuốc. Lần mua xong thì cho, lần thì để luôn bát mì chỗ cô nhân viên bán hàng. Sau thấy tình hình rát quá, đành theo một số ông lớn tuổi chuyển loại. Lúc đầu thì đỡ. Dần dần đi đâu cũng có cái điếu cày móc theo xe đạp. Thành quen.
          - Các cô vừa rồi là người quen của anh à?
          - Nếu thế mà là quen thì có mà tớ quen cả cái huyện này. Nói vui vậy thôi. Tớ được phân công mở các lớp Công binh Nhân dân ở các xã. Vùng Kim Anh này tớ gắn nhiều. Hầu như mọi người đều biết tớ nhưng tớ thì phần lớn chỉ thấy mọi người «quen quen». Đông thế làm sao nhớ tên hết được. Đến với họ thích lắm. Chân thành. Tình cảm. Nhưng đùa nghịch không kém ai. Tớ đã nhiều lần bị giấu điếu cày rồi đấy chứ.
          - Tôi cứ tưởng họ đặt tên cho anh là «Điếu Cày» là theo vóc dáng của anh cơ đấy.
          - Ờ… Cũng có một phần. Tớ cao, gầy và… Mà thôi, uống nước đi rồi tiếp tục lên đường.
          Tu luôn từ ấm. Nóng rẫy. Xuýt xoa. Nhưng đúng là vị đậm của lá vối tươi ủ đặc cuốn hút thật. Nhất là lúc này.
          Chiếc xe lại lăn bánh. Tay phải Mài giơ hẳn ra ngoài, xách theo chiếc ấm đựng nước lá vối tươi còn đang nóng.
          Mặt đường Tam Đảo (những người lính sân bay gọi con đường kéo dắt máy bay từ hầm cất giấu, từ các ụ sơ tán ven đường bằng cái tên này) khá rộng trải nhựa phẳng lỳ, dài cũng phải đến hơn ba cây số. Các ụ đất nằm rải hai bên đường được làm theo dạng hầm trú ẩn hình chữ A. Toàn bộ phần khung xương là các thanh ray được Tổng cục Đường sắt trang bị. Lớp đất bao dày hàng mét. Trong mỗi ụ được cất giấu một chiếc MiG, có cả đường tiến, lùi và quay đầu. Có ụ đã bị trúng bom nhưng máy bay bên trong đã được kéo dắt đi từ trước. Số bom ném xuống đây ít hơn khu vực đường băng, đường lăn.
          Tiếng nổ lớn phía cuối sân bay chợt dội lên. Rồi một tiếng nữa. Chiếc xe dừng ngay cạnh hố bom khá lớn ven đường.
          - Có quay lại không các anh? - Sắc hỏi trong lúc xe vẫn đang nổ máy.
          - Cứ đi đi. Ở đó các bộ phận được phân công sẽ lo ổn thôi - Nói vậy nhưng Mài cũng lo lắng, day dứt. Không biết lúc kiểm tra đánh dấu vị trí bom nổ chậm vừa rồi, các anh có sơ xuất gì không, có bỏ sót không phát hiện ra những thủ phạm trực tiếp giết người đang ẩn giấu dưới lòng đất, vệ cỏ mà các anh vừa đi qua, rà soát?
          Tu thêm chút nước vối nóng, Mài dứt ngay luồng suy nghĩ mới xuất hiện lởn vởn trong đầu. Anh phải trở về thực tại. Công việc của nhóm chưa hoàn thành. Mọi người đang chờ mặt bằng an toàn để thực thi công việc. Chiếc xe lại lăn đi, lạng lách, đèn pha quét đi, quét lại dọc hai bên đường. Thỉnh thoảng lại dừng. Người trên xe nhảy xuống. Một vài phút sau quay lại. Rồi xe tiếp tục lăn bánh. Thời gian cứ trôi. Đêm sân bay chỗ lặng lờ, chỗ ồn ào náo nhiệt.
          Rời kho xăng dầu của sân bay, vị trí cuối cùng được kiểm tra, nhóm của Mài chưa ra đến đường lớn thì thấy chiếc xe chở cát dừng lại, lái xe thò đầu ra:
          - Các anh có ăn bánh rán thì về khu tập kết - Sau câu nói, chiếc JIL.130 phóng ngay đi.
          - Chắc lại có chuyện gì đây. Bánh trái gì giờ này - Thật quay sang Mài - Ta về đấy chứ anh?
          - Ừ. Cũng phải về đấy để báo cáo.
          Khu tập kết chính là bãi sân rộng mênh mông trước nhà xưởng sửa chữa máy bay. Đang rất đông người. Ánh điện từ máy phát không đủ sáng. Mới vòng vào sân, chưa kịp dừng hẳn xe, thấy mấy bóng người cùng tiến đến, Mài nhảy ra khỏi thuyền.
          - Chào…
          Mới nói được có thế, tiếng của người nhỏ nhắn đi đầu đã cất lên, vui vẻ, át hẳn tiếng của Mài.
          - Những người anh hùng về đây rồi. Tuyệt ! Chúng tớ lo cho các cậu quá.
          - Báo cáo Chủ tịch…
          Vẫn con người nhỏ nhắn ấy cắt ngang lời Mài:
          - Rồi. Báo cáo sau. Ăn bánh đã. Đói cả rồi còn gì.
          Sau những cái bắt tay, những cái vỗ vai, vỗ lưng của nhóm lãnh đạo, trong đó, ngoài Chủ tịch Hồ Ngọc Thu, Tỉnh đội trưởng Nguyễn Văn Dật, Trưởng Ty Công an Lê Tu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 921 Trần Mạnh, còn một vài người, Mài chưa được biết. Một bọc giấy báo được giúi vào tay Mài. Trước lúc quay vào phía trong xưởng, Tỉnh đội trưởng còn lắc lắc tay Mài và Thật.
          - Cứ ăn đi. Lát vào báo cáo tình hình cụ thể để chuẩn bị công việc cho đêm mai. À mà mai gì nữa, hơn 3 giờ sáng rồi.
          - Vừa rồi nổ hai quả, tình hình thế nào anh?
          Chợt nhớ ra, Mài hỏi vội.
          - Một quả ngập hơi sâu, không tháo kíp được, cho nổ. Quả kia bị kích nổ theo. An toàn cả.
          Đám đông vây quanh chiếc ô tô tản dần hết. Trên thùng xe còn lại hai cô gái. Mài nhận ra hai nhân viên cửa hàng ăn uống Kim Anh. Anh tiến lại:
          - Chúng em bán hết rồi anh ạ. Các anh đến muộn quá.
          - Huyện cử vào bán à?
          - Không. À vâng - Vẫn cô nhân viên ấy - Cửa hàng chuẩn bị số bánh này để bán cả ngày. Lúc gần ba giờ sáng thấy nói có Chủ tịch tỉnh đến hỏi có gì ăn tạm được đưa vào trong sân bay phục vụ. Cửa hàng trưởng cử chúng em đi. Ba nghìn cái bánh mà bán hết đấy anh ạ.
          Mài giơ bọc giấy báo, chưa kịp nói, cô gái đã xua tay:
          - Mười cái ấy em gói đấy. Trả tiền rồi. Cái ông nhỏ nhỏ thấp thấp hồi nãy ông ấy bảo gói cho 10 cái để phần những người anh hùng sắp trở về. Em bảo không lấy tiền. Ông ấy cứ giúi vào tay em đúng 3 đồng. Các anh ai là anh hùng?
          - Chúng tôi là Mài, Thật, Sắc. Không ai là Hùng cả.
          - Các anh mài cái gì? Mài thật sắc để làm gì ?
          - Mài nhiều thứ lắm. Mài ý chí. Mài vũ khí… Mài… Để làm những việc như đêm nay này. Mà các cô có biết cái ông nhỏ nhỏ thấp thấp hồi nãy là ai không? Chủ tịch tỉnh Hồ Ngọc Thu đấy.
          - Thôi chết tôi rồi. Nhưng ông ấy cứ đưa tiền, em không cầm không được.
          - Sao? Bán đắt cho ông ấy à?
          - Không. Vẫn đúng giá. 3 hào một chiếc. Nhưng sao lại đi lấy tiền của Chủ tịch tỉnh nhỉ?
          - Hai đêm nay, đêm nào tôi cũng thấy ông ấy xuống sân bay trực tiếp chỉ đạo công việc. Ông này sâu sát và năng động thật. Lăn lộn, cả những chỗ nguy hiểm cùng mọi người như thế này. Quá ngưỡng mộ - Thật vừa đi về phía Sắc, vừa nói với Mài - Ờ mà hay nhỉ? Mài - Thật - Sắc. Cứ như sự sắp đặt sẵn vậy. Anh Mài ở tỉnh đội Vĩnh Phúc à?
          - Tớ ở Ban Công binh của tỉnh đội.
          - Tôi ở Đại đội Công binh. Cậu Sắc đây ở Tiểu đoàn Xe máy. Chúng tôi thuộc Trung đoàn Căn cứ sân bay. Chà! Bánh vừa ngon lại vừa đến đúng lúc - Thật cầm chiếc bánh vừa ăn, vừa nói. Mài biết, cũng như anh, Thật đang rất đói. Những chiếc bánh rán vừa nguội cứng vừa dai với các anh lúc này, thậm chí còn hơn cả các món đặc sản.
          Tu thêm ngụm nước vối, Mài đưa cho Sắc chiếc ấm:
          - Tý cậu qua nhóm phục vụ trả cho họ nhé. Tớ và Thật vào gặp các cụ đây - Nắm chặt tay Sắc, giọng Mài chùng xuống - Một ngày nên nghĩa. Đi qua cái chết lại càng thấy quý Tình Người. Tổ ba người «bất đắc dĩ» chúng mình coi như đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và trở về nguyên vẹn. Đêm mai. Đêm ngày kia. Và những đêm sau. Vẫn ở đây nhưng chắc mỗi người một việc. Dù là việc gì, làm ở chỗ nào, cái đầu tiên vẫn phải là an toàn tuyệt đối nhé.
          Họ nắm tay nhau thật chặt rồi quay về hai hướng. Sắc và chiếc mô tô ba lăn bánh nhằm hướng công trường. Mài cùng Thật rảo bước vào dãy nhà trong xưởng sửa chữa. Ở đó, các cán bộ Ban chỉ đạo của tỉnh và sân bay đang bàn kế hoạch triển khai công việc cụ thể cho lực lượng ứng cứu chi viện sửa gấp sân bay trong những đêm sau.
                                                                              
                                                                                    Trần Phương Chi
 
SÁU LẦN TIỄN CON ĐI...
(Viết về mẹ Việt Nam anh hùng
Nguyễn Thị Chanh, xã Quang Tiến)
 
Không có thứ tình cảm nào cao quý, thiêng liêng hơn tình mẫu tử. Và cũng không có một nỗi đau nào có thể so sánh được với nỗi đau của người mẹ mất con. Vậy mà, chỉ trong vòng 5 năm, bà nhận được ba tấm giấy báo tử. Sáu lần tiễn con đi, thì ba lần bà khóc cạn khô nước mắt vì các anh không có ngày trở về… Đó là bà Nguyễn Thị Chanh - Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở thôn Quảng Hội, xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội.
Mẹ Nguyễn Thị Chanh sinh năm 1913, tại thôn Quảng Hội, xã Minh Hòa huyện Kim Anh (nay là xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội). Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, nên ngay từ thuở ấu thơ mẹ đã phải chịu bao nỗi gian truân, vất vả.  Khi lớn lên, mẹ đi lấy chồng, cũng là lúc mẹ nhận rõ thế nào là nỗi nhục của người dân bị mất nước, mẹ Chanh kể lại : Trong những năm tháng kháng chiến, bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai đã lập ra “vành đai trắng” hòng tiêu diệt cán bộ Việt Minh và cô lập giữa cách mạng và nhân dân. Quên sao được cái ngày đau thương nhất đến với gia đình mẹ : hôm đó là ngày 6/3/1954, ngay từ sáng sớm, bọn lính Pháp và quân “O-E” phản động Nội Bài hùng hổ kéo về làng càn quét. Sau khi lùng sục, cướp bóc của cải của dân, chúng dồn hết mọi người trong làng đến tập chung tại sân nhà mẹ. Tên quan Pháp, mặt sát khí đằng đằng, cầm roi đuôi bò quất tới tấp vào mặt những ai không có tiền nộp sưu cho chúng. Dã man hơn, chúng lôi cả gia đình nhà mẹ ra để đánh đập, lý do : chồng mẹ, ông Nguyễn Văn Phong, làm phó lý cho Tây nhưng lại hoạt động cho cách mạng. Trong lúc chồng mẹ đang “thập tử, nhất sinh”, thì toán lính lại bắt luôn chú em chồng là Nguyễn Tư Cảnh nằm úp mặt vào tường. Tên lính Pháp dí súng vào mang tai chú Cảnh và bóp cò, rồi hắn cười khùng khục trong cơn giãy chết của người em vô tội. Bao nỗi uất hận luôn nặng trĩu trong lòng mẹ Chanh. Vừa tần tảo chăm sóc cho chồng và chắt chiu nuôi dạy chín người con. Song, điều ước lớn nhất đối với mẹ Chanh là mong sao cho các con của mẹ khôn lớn, trưởng thành để sớm đền nợ nước, trả thù nhà.
Sau ngày giải phóng Thủ đô (10/10/1954), Hà Nội cùng cả nước bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và dốc lòng, dốc sức cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1961, Nhà nước lấy đất để xây dựng sân bay quân sự Đa Phúc, nay là sân bay Quốc tế Nội Bài, mẹ Chanh gương mẫu đi đầu vận động bà con trong thôn cùng chấp hành tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước, di dời lên vị trí mới gần hồ Đồng Quan để lập ấp, với tinh thần “3 không” (không tiền đền bù đất đai nhà cửa, không có phương tiện vận chuyển và không có hỗ trợ kinh phí tái định cư). Tấm gương biết hy sinh lợi ích riêng vì nhiệm vụ chung của gia đình mẹ Chanh và toàn dân  thôn Quảng Hội như một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. 
Đúng vào thời điểm đó, cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước bắt đầu nổ ra ác liệt. Tháng 4/1962, mẹ Chanh tiễn người con trai thứ nhất là anh Nguyễn Văn Phú lên đường nhập ngũ. Bốn năm sau, người em là Nguyễn Văn Thích cũng tiếp bước anh trai lên đường tham gia chiến đấu.
Xa hai người con dứt ruột đẻ ra, mẹ Chanh chỉ biết bằng cách nói với  người con cả là anh Nguyễn Văn Lưu, hiện đang công tác trên huyện thường xuyên viết thư động viên, bảo ban các em khắc phục khó khăn gian khổ, phát huy truyền thống gia đình, yên tâm công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng giao.
Chỉ ba tháng sau, người con gái của mẹ là Nguyễn Thị Tính lại xung phong lên đường. Lần thứ ba gạt nước mắt tiễn con đi mà trong lòng mẹ trăm bề lo lắng… Và rồi cái điều mà mẹ không mong muốn ấy cũng đã xảy ra. Ngày 15/2/1967, trong một trận chiến đấu rất ác liệt với quân thù, Nguyễn Văn Phú (người con trai thứ hai của mẹ) đã anh dũng hy sinh tại mặt trận phía Nam. Không chịu cảnh giặc Mỹ giết hại người thân của mình, anh Nguyễn Văn Tình, người con thứ năm đã xin mẹ cho được đi chiến đấu để trả thù cho anh trai, trả thù cho quê hương, đất nước. Vậy là lần thứ tư, mẹ Chanh lại tiễn đưa thêm một người con vào mặt trận. Ở hậu phương, mẹ Nguyễn Thị Chanh tích cực tham gia hoạt động Ban Chấp hành Phụ nữ, Hội Mẹ chiến sĩ. Ngoài việc sản xuất nông nghiệp, bất chấp bom đạn của kẻ thù, tối tối mẹ lại cùng các mẹ trong thôn lên tận trận địa pháo cao xạ trên đồi Thống Nhất, cạnh hồ Đồng Quan, dưới chân núi Sóc để thăm hỏi, động viên, tặng quà, chăm sóc thương binh, khâu vá quần áo cho chiến sĩ.
Sau cuộc tổng tiến công nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, anh con trai cả Nguyễn Ngọc Lưu đang là cán bộ phòng thuế huyện Kim Anh (nay là Sóc Sơn) lại đến bên mẹ xin phép được lên đường cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Mẹ Chanh nhìn vào mắt người con trai cả mà không nói điều gì. Nhưng từ trong sâu thẳm của mẹ ánh lên niềm tin và tự hào đối với các con. Tiễn người con thứ năm vào nơi “lành ít - dữ nhiều” nhưng mẹ vẫn luôn cầu trời, khấn Phật để các anh gặp nhiều may mắn. Vừa đi được mấy tháng, mẹ Chanh lại nhận được tin dữ. Người con trai cả của mẹ, anh Nguyễn Ngọc Lưu đã hy sinh anh dũng. Nỗi đau xé lòng khi mẹ cầm tấm giấy báo tử thứ hai trên tay. Nhưng sự tàn khốc của chiến tranh đâu chỉ có vậy. Hai năm sau, ngày 27/3/1974, người con thứ ba của mẹ là anh Nguyễn Văn Thích lại tiếp tục ngã xuống trên chiến trường miền Nam. Mẹ Chanh tưởng chừng không còn đủ sức để đứng vững trước những mất mát quá lớn liên tiếp ập xuống đầu mẹ. Song, nhờ có sự chia sẻ, động viên, giúp đỡ của bà con hàng xóm và các cơ quan đoàn thể ở địa phương, phần vì mẹ cũng hiểu muốn có độc lập, tự do, lẽ tất nhiên phải có hy sinh, mất mát. Vì thế, dần dần mẹ Chanh cũng vượt qua được nỗi đau đó.
Lần thứ sáu (năm 1979) mẹ tiễn đưa người con trai út, anh Nguyễn Văn Chín, lên đường bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc Hoàng Liên Sơn. Đến bên người con dâu cả Nguyễn Thị Phất (vợ liệt sỹ Nguyễn Văn Lưu) mẹ bảo : “Con biên thư ngay cho thằng Chín, báo tin : Bố mẹ, anh em, các cháu và gia đình ta vẫn mạnh khỏe, năm nay thôn ta được mùa nhất xã, con lợn nái của nhà đẻ được 14 con lợn khoang đẹp lắm... Và nhớ dặn em nó hoàn thành tốt nhiệm vụ”.
Khi đất nước được hòa bình thống nhất, cả ba người con của mẹ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trở về với mẹ, ba người con còn lại đã vĩnh viễn nằm lại ở các chiến trường. Mẹ Chanh đã cống hiến cho Tổ quốc những người con ưu tú nhất của mình. Với những đóng góp và sự hy sinh to lớn đó, mẹ Nguyễn Thị Chanh được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Ba và danh hiệu cao quý “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Đặc biệt, mẹ Chanh vinh dự được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị đến thăm hỏi, động viên, tặng quà.
Khi bước sang tuổi 95 (vào năm 2007), tuy đôi mắt đã lòa, nhưng mẹ Chanh vẫn khỏe mạnh và rất minh mẫn. Gặp chúng tôi, mẹ xúc động nói : “Nhờ có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, đoàn thể, đơn vị cùng bà con thôn xóm luôn đến thăm hỏi, động viên, tặng quà và nhận phụng dưỡng chăm sóc, nên mẹ mới được mạnh khỏe như ngày hôm nay”. Nhưng chúng tôi hiểu : dẫu rằng có quan tâm bao nhiêu đi chăng nữa, cũng không thể so sánh nổi với sự hy sinh, mất mát to lớn của mẹ Nguyễn Thị Chanh - Bà mẹ Việt Nam anh hùng của Thủ đô Hà Nội anh hùng.       
                                                                      Ngọc Huân
                                                     
THEO  DÒNG NHẬT KÝ...
(Theo lời kể của CCB Lê Kim Sơn, xã Phù Lỗ)
 Một khuôn viên xinh xắn, có nhiều loài hoa đẹp, nhiều loại cây thế, cây bon-sai đắt tiền bao quanh ngôi nhà mới khang trang vừa mới xây xong. Ở đó ông có thể yên tĩnh với đam mê cây cảnh và những ký ức của mình. Ông bảo tôi là người may mắn nên bây giờ còn có thể ngồi đây vui với cây thế, làm thơ, viết sử sau nhiều lần đối mặt với sinh tử chiến trường, đặc biệt trong trận đánh ở Thượng Đức (Quảng Nam) ông bị mảnh đạn pháo găm vào sâu trong đầu, đến giờ mỗi khi thời tiết thay đổi, nhất là những hôm gió bấc trời trở lạnh, mảnh đạn như biết cựa quậy rất khó chịu
Tháng 1/1972, Lê Kim Sơn người làng Tây Đoài - Phù Lỗ - Kim Anh - Vĩnh Phúc, chỉ còn gần 3 tháng nữa là tốt nghiệp trường Cơ khí Tổng cục đường sắt đã cùng hàng vạn sinh viên các trường cao đẳng, đại học của miền Bắc xếp bút nghiên lên đường đánh Mỹ. Khoảnh khắc biết mình thực sự xa mái trường, xa các bạn, Sơn xúc động lúng túng, dù cố gắng kìm nén trước mặt các bạn gái nhưng dòng lệ vẫn trào ra. Ra đi anh để lại tất cả chỉ mang theo trong ba lô cuốn nhật ký và những tấm ảnh bạn bè thân (trong đó có một tấm ảnh sau này trở thành báu vật duy nhất còn lại của gia đình dòng họ liệt sỹ Hoàng Văn Tiến ở Bắc Ninh do thương binh Lê Kim Sơn trao lại sau 42 năm cất giữ). Làm sao không xúc động, không rơi lệ khi phải xa mái trường thân yêu sau 2 năm gắn bó, xa các thầy, các bạn bao nhiêu kỷ niệm trước giờ phút chia tay. Nhưng cuộc chia tay lần này lên đường nhập ngũ là một vinh dự của một sinh viên khi đất nước có giặc. Sơn xác định rõ như vậy và tâm trạng ấy được anh ghi lại trong cuốn nhật ký ngày 13/01/1972: Vòng quanh dòng lệ thân thương/ Bùi ngùi nhớ lúc lên đường ra đi/  Thanh niên trẻ khỏe một thì/ Tòng quân giết giặc quyết vì quê hương/ Bút nghiên xếp lại - lên đường/ Giữ gìn làng xóm, phố phường non sông.
 Cùng đội ngũ với Sơn, lớp sinh viên lên đường ngày ấy có mặt trên khắp trận tuyến từ Thành cổ Quảng Trị đến chiến trường miền Đông Nam bộ, tham gia giải phóng Buôn Mê Thuột, có mặt ở Sài Gòn vào ngày 30/4/1975. Trong hơn 10.000 sinh viên thì hơn một nửa hy sinh tại các mặt trận phía nam, trên đất Lào nhưng nhiều nhất là trong chiến dịch 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Nói về những ngày tháng chiến đấu ở Quảng Trị, hồi tưởng lại theo ông Sơn được biết: Trước thảm bại Quảng Trị thất thủ. Thừa Thiên, Huế bị uy hiếp nặng nề, ngày 13/6/1972, sau khi được Mỹ hứa tăng viện trợ. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu quyết định mở cuộc hành quân “tái chiếm Quảng Trị”. Thiệu huy động 4 sư đoàn mạnh nhất trong quân đội ngụy, trong đó có sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ thuộc lực lượng tổng dự bị quốc gia, với lực lượng tương đương 13 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn được nhiều đơn vị không quân, pháo hạm Mỹ hỗ trợ cho cuộc hành quân tái chiếm này. Nắm được âm mưu của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch của ta chủ trương tăng cường lực lượng vào giữ thị xã. Cuộc chiến đấu vào những ngày cuối tháng 8/1972 càng diễn ra quyết liệt. Mỹ- Ngụy dùng âm mưu phong tỏa thị xã Quảng Trị bằng hỏa lực để phá vỡ các tuyến chốt bảo vệ thị xã của quân giải phóng, đồng thời cho sư đoàn lính thủy đánh bộ lấn dũi, hành động được lặp đi lặp lại nhiều lần. Sư đoàn 304 được bố trí tập trung đánh địch ở Cầu Nhi, Bến Đá và núi Trường Phước. Đại đội 2 thuộc Trung đoàn 66 của Sơn chịu trách nhiệm bám giữ điểm cao 105 đến động Ông Do. “Cuộc chiến đấu giữa ta và địch cứ diễn ra giằng co quyết liệt, giành nhau từng ụ đất, bộ binh địch đột phá không được thì lùi ra gọi pháo kích. Mật độ bom pháo địch dày đặc tới mức không thể nhận ra từng tiếng nố. Trong thị xã, tường thành cổ sụp đổ từng mảng, mặt đất biến dạng. Gạch ngói đất đá nóng chảy khét lẹt, hầm hố công sự chao đảo đu đưa, người bị nhồi lên ép xuống không khí ngột ngạt. Ngồi trong hầm không trúng mảnh đạn mà máu vẫn trào ra ở tai, ở mũi”, nhiều đồng đội hy sinh không phải một lần mà hy sinh rất nhiều lần. Chúng tôi vừa an táng cho đồng đội xong, nó lại nã pháo vào đồng đội lại phải hy sinh lần 2, lần 3 đó là cái đau thương nhất mà tôi phải chứng kiến. Thành cổ Quảng Trị bây giờ bảo tìm nguyên thi thể thì không thể tìm được. Đại đội 2 liên tục được bổ xung quân từ miền Bắc vào và điều động lực lượng từ đơn vị khác sang để giữ chắc điểm cao 105 và 367. Đạn pháo phía địch bắn vãi ra như mưa, quân ta hy sinh, tổn thất nhiều, đến khoảng 15 giờ ngày 16/8 tôi bị sức ép từ quả đạn pháo nổ rất gần lịm đi, được đồng đội chuyển ra tuyến ngoài, 3 ngày sau tỉnh lại, tôi nhận thêm tin đau đớn Hoàng Văn Tiến quê Quế Võ- Bắc Ninh người bạn thân cùng lớp, cùng ngày nhập ngũ đã anh dũng hy sinh trên chốt. Sau thời gian điều trị sức khỏe cơ bản đã hồi phục Sơn tiếp tục trở lại đơn vị chiến đấu.
Tháng 5/1974 sư đoàn 304 được điều từ Cam lộ - Quảng Trị lên Quảng Đà chuẩn bị cho chiến dịch đánh Thượng Đức. Ông Sơn nhớ lại: ngày 28/7/1974, đại đội 2 tiểu đoàn 7, trung đoàn 66 của ông nhận nhiệm vụ phối hợp với một số đơn vị khác của quân khu 5 tiêu diệt cụm căn cứ quân sự địch ở Thượng Đức, nơi được Thiệu coi là “mắt phủ đầu Rồng”, là “cánh cửa thép” bất khả xâm phạm phía tây nam thành phố Đà Nẵng, được bố trí phòng ngự rất kiên cố và cẩn mật. Theo kế hoạch, đúng giờ “G”, hỏa lực của ta tập trung phá hàng rào địch mở cửa cho bộ binh xông lên, nhưng do chủ quan, tính toán thiếu chính xác, loạt súng phun lửa RP bắn quá tầm, hàng rào chưa được phá bỏ nên đội hình của tiểu đoàn phải chững lại, lập tức hỏa lực địch phản công quyết liệt gây tổn thất nặng nề cho quân ta, riêng đại đội 2 thương vong quá một nửa, Lê Kim sơn bị thương ở đầu. Sau khi điều trị lành vết thương tại Quân y viện 84 Đông Giang (Quảng Nam), ông trở lại đơn vị tiếp tục chiến đấu tại điểm cao 1062. Tại đây, sau những làn pháo nổ, đạn réo chát chúa kéo dài từ phía địch ngay cạnh công sự, vết thương trên đầu của ông tái phát, ông nằm bất tỉnh và được đơn vị cáng chuyển về tuyến sau. Ngày 29/12/1974 tại Quân y viện 43, Lê Kim Sơn hồi tưởng lại những ngày bám giữ cao điểm 1062, viết vội nhật ký bài thơ “Màu chốt”. Ở ngay đầu bài thơ ông viết, ta đã thấy cái ác liệt của cuộc chiến này: Cao điểm này xưa là cánh rừng già/ Đỉnh vút tầm cao phóng xa tầm mắt/ Cao điểm hôm nay đỏ bung màu đất/ Quanh các chồi xanh đã hóa rằn ri…
          Căn cứ Thượng Đức thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam cách thành phố Đà Nẵng 45 km về phía tây. Nằm trên dải Trường Sơn hùng vỹ đất nước hình chữ S, một vùng đất đỏ ba-zan rộng lớn, con sông Vu, sông Côn ngày đêm chảy qua, những cánh rừng đại ngàn quanh năm xanh tốt, ẩn chứa một tiềm năng kinh tế to lớn, trù phú lẽ ra đồng bào các dân tộc trong vùng sớm được khai thác. Nhưng nơi đây địa hình hiểm trở, đắc địa, Mỹ, ngụy chọn nơi này lập thành “cánh cửa thép” ngăn Quân giải phóng tràn xuống đồng bằng. Từ tháng 5/1974 chủ trương Bộ tư lệnh Quân khu 5 cũng chọn đây là cửa mở quan trọng để đưa lực lượng về giải phóng Thành phố. Thượng Đức trở thành nơi trận chiến sống mái giữa hai bên. Các trận giao tranh diễn ra ác liệt nhiều ngày, bom dội, pháo dàn, đạn xới trộn lẫn đỏ bung cả một vùng đất xám bụi khói đạn, những chồi xanh cây lá bị băm nát, chôn vùi lẫn với đất đỏ, cây cỏ ngổn ngang, thay vào đó là những bộ rằn ri ngụy quân gây tội ác.“Chốt vẫn soi gương khuôn mặt lầm lì/ Khẩu súng tiểu liên nằm nghiêng bí mật/ Mấy chục trái tròn sẵn sàng chờ giật/ Mấy chú mìn xa cũng rất nằm im…”
Sau 9 ngày giằng co giữa 2 bên (từ ngày 29/7 đến 7/8/1974), thực lực Quân lực Việt Nam cộng hòa còn mạnh, hệ thống lô cốt hầm ngầm kiên cố, các đợt tấn công của Quân giải phóng chưa hiệu quả, bộ đội thương vong nhiều. Tư lệnh chiến dịch tổ chức rút kinh nghiệm chuẩn bị đợt công kích lần 2. Khoảng lặng im giữa 2 trận đánh cũng là khoảng lặng đo dò tâm trạng người lính. Phía chiến sỹ ta vẫn lạc quan, chuyền tay nhau điếu thuốc, hạt lương khô nằm im chờ lệnh, đó cũng là tâm trạng của chiến sỹ Lê Kim Sơn ghi trong nhật ký qua đoạn thơ: “Giữa đợt pháo bom là khoảng im lìm/ Một chút thảnh thơi giòn êm khói thuốc/ Này- hãy chuyển sang cơm đùm muối ruốc/ Tay xoa xoa rửa cạn thế là xong…”.
 Rạng sáng ngày 7/8/1974 khi lớp sương mù dày dặc trên các ngọn núi vừa tan. Quân giải phóng nã pháo tới tấp vào các mục tiêu. Với hỏa lực mạnh và chính xác, lực lượng địch bị rối loạn mất phương hướng, quân ta thừa thắng xông lên chiếm giữ hoàn toàn căn cứ Thượng Đức.
“Để tái chiếm Thượng Đức. Quân lực Việt Nam cộng hòa tiến đánh cao điểm 1062, lực lượng lính dù được huy động, chúng điều nhiều máy bay cường kích và pháo hạm yểm trợ. Đầu tháng 10/1974, Việt Nam cộng hòa chiếm được cao điểm 1062”. Cuộc chiến đấu lại chuyển sang thế giằng co quyết liệt. Ở khổ cuối bài thơ “Màu chốt” ông Sơn tả lại: Ngày lại đêm qua núi đổi thay màu/ Màu xương máu và màu của chốt/ Một không sáu hai (1062) không thể nào mất được/ Có những chàng trai canh suốt thời gian…
Đúng! Máu có thể lại tiếp tục đổ nhưng lời thề 1062 không thể mất, Nhân dân Thượng Đức nhất định phải được giải phóng. Được sự viện trợ của Sư 2 Quân khu 5 phối hợp tác chiến, Sư đoàn 304 quân giải phóng tổ chức đợt tấn công lần 3, đến cuối tháng 11 ta lại chiếm được cao điểm 1062. Cuối năm 1974 sau 3 đợt giao tranh quyết liệt, tổn thất của cả hai phía không nhỏ nhưng quan trọng hơn là Quân giải phóng làm chủ hoàn toàn căn cứ Thượng Đức, chiến thắng này đã phá vỡ hoàn toàn tuyến phòng thủ Đà Nẵng, củng cố quan điểm sức mạnh vượt trội của Quân giải phóng, tạo tiền đề quân ta chiếm thế chủ động toàn chiến trường trong năm 1975.
 Thượng Đức bây giờ khác xưa nhiều lắm, những cánh rừng xanh lại màu xanh nguyên thủy của nó. Trên cái nền đất đạn xới ngày nào giờ là những ngôi nhà ngói cao tầng, con đường bê tông, những ngôi trường rộn tiếng trẻ thơ. Năm 2000, Thượng Đức được xếp hạng di tích cấp Quốc gia. Ban liên lạc Cựu chiến binh Sư đoàn 304 xây dựng mới tượng đài chiến thắng. Những công sự, hầm ngầm, hàng rào, sân bay trực thăng được gìn giữ tôn tạo, Thượng Đức tương lai một tiềm năng dồi dào về du lịch. Nhật ký bằng bài thơ “MÀU CHỐT” với 7 khổ 28 câu của Lê Kim Sơn phần nào phản ánh và lưu giữ ghi lại sự khốc liệt chiến tranh và sự hy sinh anh dũng của lớp cha anh mà hôm nay các thế hệ trẻ tự hào học tập.
Sau ngày giải phóng miền Nam (30/4/1975), Sơn không trở lại học tập ở trường do vết thương sọ não. Theo lời khuyên của gia đình và người thân, ông phục viên về quê lấy nghề “Nuôi cá dưỡng tâm, nuôi cây dưỡng thần”.  Cuộc sống cuối đời của thương binh Lê Kim Sơn như  ông  vẫn thường tự nhủ: ‘mình là người may mắn’, bởi gia đình, ông bà song tuyền đề huề, cháu con phương trưởng, kinh tế ổn định, thế cũng là viên mãn rồi. Nhưng khoảng đời còn lại, mỗi khi có sự kiện lịch sử, nhất là vào dịp (30/4) con cháu trong nhà thường thấy ông ngồi một mình nhìn trên màn hình ti vi mà nước mắt cứ rơi hoài, trong lòng ông quặn lại khi nhớ về đồng đội, nhớ tới Hoàng Văn Tiến nằm ở nơi chiến trường xa...
Thời gian qua đi đã gần nửa thế kỷ, cuốn nhật ký hầu như các trang đã hoen ố màu vàng, nhiều con chữ đã mất nét, mất dấu. Các tấm ảnh đen trắng cũng bạc, rách thủng lỗ chỗ xung quanh, nhiều chi tiết không đầy đủ, chỉ duy nhất bức ảnh của Hoàng Văn Tiến gần như còn nguyên vẹn. Tiến ơi! Sơn và đồng đội không tìm được nguyên vẹn thi hài bạn, Tiến bây giờ nằm chung ngôi mộ cùng các đồng đội trong Thành Cổ. Có phải ông trời còn có mắt mà vẫn để lại cho Sơn một tấm ảnh duy nhất nguyên vẹn hình hài. Tấm ảnh Tiến và bạn bè theo Sơn đi khắp các chiến trường đến ngày phục viên vẫn nằm trong đáy ba lô theo Sơn về quê. Không thể mất Tiến một lần nữa. Sơn quyết giữ gìn bảo vệ tấm ảnh này, Sơn đi ép ảnh plastic để chống chọi với thời gian. Sơn lưu giữ nó bên mình và tâm niệm đến một ngày kia Sơn về với tổ tiên thì rủ Tiến về cùng. Thế rồi năm 2014, nhân dịp buổi gặp mặt lớp học viên khóa 4 trường Cơ khí Tổng cục đường sắt tại Tiên Du- Bắc Ninh, Sơn vui mừng gặp lại các thầy cô, bạn bè sau bao năm xa cách, biến động. Linh tính như mách bảo điều gì quan trọng lắm sắp xảy ra và đúng như thế, Hiệt người bạn cùng lớp, cùng ngày nhập ngũ gần quê nhà Tiến kể cho Sơn nghe chuyện gia đình Tiến nhiều lần vào Quảng Trị tìm hài cốt không được. Hy sinh rồi Tiến chẳng có tấm ảnh nào đặt lên bàn thờ ngày giỗ, chẳng còn di vật gì lưu làm kỷ niệm. Sơn ôm chặt Hiệt trong tiếng nấc ngẹn ngào thấy mình như có lỗi. Tiến ơi! Ngày học cùng lớp bọn mình vô tâm quá, chẳng ghi dòng địa chỉ thôn, xóm, xã của nhau. Ngày phục viên đồng đội nhớ nhau, khó khăn còn hạn chế nhiều thứ, cứ lỗi hẹn với nhau mãi mà chưa đến nhà thăm hỏi nhau được. Sơn ghi lại địa chỉ, rồi vội viết vài dòng chữ về cho gia đình Tiến báo tin còn giữ tấm ảnh và hẹn ngày gần nhất hai vợ chồng Sơn về thăm hai bác. Nhận thư Sơn, cụ ông, cụ bà thân sinh Tiến cứ quýnh lên vội tổ chức người thân trong nhà theo chuyến xe 16 chỗ lên Phù Lỗ - Sóc Sơn thăm gia đình Sơn để được xem hình con. Tiếng nấc hầng hậc rồi cả những tiếng khóc vỡ òa trong 3 gian nhà sau khi được nhìn thấy con, người thân ngót nửa thế kỷ đi xa. Mẹ Tiến hai tay cầm bức ảnh con, bà nấc lên trong tiếng gọi - Tiến ơi!... Con đây rồi, con của bố mẹ thật đây rồi! Bao nhiêu năm nay cả gia đình đi tìm con, vẫn biết con ra đi vì sự yên lành của Tổ quốc. Về với bố mẹ, về với gia đình con nhá! - Rồi bà ôm chặt lấy Sơn nói trong ngẹn ngào: Cảm ơn anh Sơn đã đưa Tiến về với bố mẹ, gia đình tôi biết ơn anh nhiều lắm chẳng biết lấy gì tạ ơn. Sơn lau nước mắt và nói: Con giữ lại được Tiến cũng nhờ may mắn, rồi ông trời như cũng biết chẳng lấy đi của ai tất cả, điều thiêng liêng trong tình bạn, tình đồng đội của ngưới lính chúng con mẹ ạ.
Vào ngày 31/5/2014, Sơn và gia đình làm mâm cỗ thắp lên bàn thờ gia tiên báo với tổ tông, với ông bà về chuyện tình bạn với Tiến và nay xin phép các cụ tiễn đưa Tiến về với gia đình. Trước khói hương bàn thờ Sơn nói: Tiến ơi, chúng mình không được ở cùng nhau nữa, bây giờ Tiến phải về với bố mẹ, gia đình, dòng họ, làng quê của Tiến ở Quế Võ - Bắc Ninh. Tiến xa quê 42 năm rồi đấy. Hôm này tới ngày 19/8, đúng ngày hy sinh của bạn, vợ chồng mình sẽ về Bắc Nính thắp hương cho Tiến. Xong rồi Sơn đưa tay lên chào kiểu nhà binh và nói thầm 3 tiếng trong đau đớn lẫn vui sướng: ‘Tiến về nhé!’
                                                                       Ngô Bích Sen (ghi)
LÍNH TRẬN A BIA
(Viết về CCB Đào Quang Đới, xã Trung giã)
Đại tá Đào Quang Đới, chạm ngưỡng 70, nhưng tác phong nhanh nhẹn, gương mặt tươi tắn, toát lên nét thanh tú của thời trai trẻ. Qua trò chuyện mới biết, gần 40 năm phục vụ quân đội, trong đó có 24 năm ông là lính Sư đoàn 324, từng tham gia chiến đấu trên đồi A Bia - trận đánh thay đổi cục diện chiến trường, làm rung chuyển Lầu Năm Góc. Đào Quang Đới 3 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, 1 lần Chiến sỹ Quyết thắng, cùng nhiều huân, huy chương các loại...
Gặp ông vào một ngày đầu thu lịch sử, những ký ức của thời hoa lửa lại ùa về trong căn phòng ấm cúng của gia đình tại phố Nỷ, xã Trung Giã..
Niềm khát khao cháy bỏng
Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, mẹ mất sớm khi mới 5 tuổi,  Đới được bà nội, bà ngoại nuôi ăn học. Từ cấp I đến cấp II, Đới luôn là học sinh khá giỏi. Những bài học về lịch sử thời dựng nước và giữ nước của dân tộc, cùng khí thế sục sôi đánh Mỹ đã hun đúc Đào Quang Đới luôn có ước mơ trở thành anh bộ đội.
Khi mới 17 tuổi, đúng vào thời điểm cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, mặc dù chưa đủ tuổi nhưng Đới tình nguyện đăng ký nghĩa vụ quân sự (NVQS). Nhận giấy báo khám tuyển, tâm trạng Đới nửa mừng, nửa lo. Mừng vì đây là cơ hội tốt để trở thành người lính. Lo lắng là vì, vóc dáng nhỏ bé thế này, làm sao đủ cân, đủ lạng để trúng tuyển NVQS? Và anh đã nghĩ ngay ra cách quấn thêm đá vào người để tăng trọng lượng, nhưng không ổn vì làm như vậy dễ bị lộ. Rất may ngay lúc đó, Đới gặp người chú họ, tiện thể nhờ chú cân hộ được 51 kg, vượt 6 kg so với quy định (thời chống Mỹ, nam giới tối thiểu phải đạt 45 kg trở lên).
Nhưng rắc rối lại xảy ra, sau vòng khám sơ tuyển, đến đơn vị nhận quân “mục sở thị” thì mọi chuyện bị vỡ lở. Khi bước lên bàn cân, tính cả bì, Đào Quang Đới cũng chỉ được 39 cân (hụt 12 cân so với khám ban đầu) và bị đơn vị nhận quân loại ngay từ vòng đầu. Như đứa trẻ bị hẫng hụt, Đới chạy đến ôm chầm lấy đồng chí Nguyễn Văn Cận, chỉ huy đơn vị nhận quân, khóc lóc van xin cho được nhập ngũ đợt này và quả quyết với mọi người rằng: “Nếu không được nhập ngũ đợt này, đơn vị đi đâu, Đới sẽ theo tận cùng tới đó”. Đồng chí chỉ huy chần chừ do dự... nhưng thấy Đào Quang Đới có tinh thần hăng hái, cộng với niềm khát khao cháy bỏng, nên người đứng đầu đơn vị nhận quân không nỡ... và quyết định phát quân trang cho Đào Quang Đới, nhưng với yêu cầu phải giữ lại cậu chiến sĩ “nhí” này ở tiểu đoàn bộ để có thời gian "vỗ béo" (theo cách nói tếu táo của lính).
Đào Quang Đới cùng đơn vị hành quân từ Kiến Xương, Thái Bình lên Yên Tử, Quảng Ninh về Trung đoàn 6, Sư đoàn 350, Quân khu Tả Ngạn (nay là Quân khu 3). Sau hơn 2 tháng huấn luyện, bắn đạn thật, Đới đạt loại giỏi, được cấp trên thưởng 5 ngày phép về quê thăm gia đình trước khi vào Nam chiến đấu.
Tháng 5/1968, đơn vị của Đới rời đất Bắc vào tập kết tại Lao Bảo (Quảng Trị), anh được bổ sung, biên chế vào Đại đội 1, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 8, Sư đoàn 324 - Quân khu Bình Trị Thiên (nay là Quân khu 4).
 Dũng sĩ trên “Đồi Thịt Băm”
Đồi A Bia, thuộc xã Hồng Bắc, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên - Huế). Cách đây hơn nửa thế kỷ đã diễn ra trận đánh lịch sử giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, trực tiếp là Sư đoàn 324 với Quân đội Mỹ - trận đánh trên Đồi A Bia là trận ác liệt nhất, khủng khiếp nhất và kinh hoàng nhất đối với quân đội Mỹ, và chính người Mỹ đã phải thốt lên rằng: A Bia là Đồi Thịt Băm - (Hamberger Hill).
Trước khi đánh Đồi A Bia, Đào Quang Đới đã được tôi luyện qua thử thách, trực tiếp tham gia đánh chặn cuộc hành quân "Ma Ri Cay" của lực lượng hỗn hợp Mỹ - Nguỵ đổ bộ chiếm vùng núi Cô Ác, đánh ra vùng Tam Tanh, A Dơi sát biên giới Việt - Lào. Trận đầu do đại đội trưởng Hoàng Văn Quán chỉ huy, trực tiếp đi cùng mũi của Tiểu đội 1, tập kích cao điểm 325. Sau khi đã bố trí xong lực lượng, ém sát từng hầm thùng của địch, đại đội trưởng Quán lùi ra để bắn pháo hiệu - phát lệnh tấn công, thì bị một tên lính Mỹ phát hiện bắn một loạt AR15, đại đội trưởng Hoàng Văn Quán trúng đạn hy sinh. Ngay lập tức, Đào Quang Đới giương khẩu AK nhằm thẳng tên địch, xiết cò, tên Mỹ chết gục ngay tại chỗ. Tiếp đó, trận thứ hai, cùng đại đội 20 đặc công tập kích ban đêm vào "Đồi không tên", tiêu diệt gọn 1 đại đội địch, góp phần cùng với Trung đoàn 3 và các lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị làm thất bại cuộc hành quân "Lam Sơn 271" của Mỹ - Nguỵ, tạo thế để quân và dân Trị Thiên tiếp tục triển khai tấn công tiêu diệt địch giành thắng lợi lớn trên chiến trường Trị Thiên - Huế. Cả hai trận đánh, Đào Quang Đới đều được tặng danh hiệu “Dũng sỹ diệt Mỹ” và Huân chương Chiến công hạng Ba. Chiến công đầu đã giúp Đào Quang Đới càng thêm vững vàng bản lĩnh chiến đấu.
Một thời gian sau, anh được điều về Tiểu đội 2, Trung đội 2, Đại đội 1, Tiểu đoàn 7, đúng vào thời điểm cuộc chiến ở Đồi A Bia diễn ra vô cùng ác liệt.
  Là điểm cao nằm giữa vùng rừng núi trùng điệp gần biên giới Việt-Lào. Đồi A Bia có ba mỏm: 916, 903 và 900, tạo thành thế chân vạc. Nếu chiếm  được A Bia thì sẽ kiểm soát toàn bộ thung lũng A Lưới có chiều dài 20 km, khống chế tuyến chi viện chiến lược - đường 559 của ta. Do có lợi thế về mặt quân sự nên Mỹ, Nguỵ đã mở nhiều đợt tấn công, quyết tâm chiếm bằng được A Bia.
Đại đội 2 được phân công tiêu diệt đại đội lính dù Mỹ mới đổ xuống 916. Đào Quang Đới được giao nhiệm vụ cùng 2 đồng chí Thạch và Trang đi trước trinh sát. Từ sáng sớm đến 10h trưa phát hiện được địch, Trung đội tổ chức thành 2 mũi tấn công. Trận chiến đấu diễn ra khoảng 15 - 20 phút, địch bám trụ trong công sự, gọi không quân và bộ binh chi viện: bom toạ độ, napalm, pháo, cối, trực thăng... liên tục bắn phá dữ dội vào đội hình, quân ta không thể tiến lên được.
Đến 5 giờ sáng hôm sau, ta tăng cường lực lượng thêm 2 trung đội cùng 3 khẩu đội cối 60mm. Đúng vào lúc trực thăng của địch bay đến thả đồ ăn, bọn lính Mỹ xô nhau ra đón nhận, lập tức các hướng tấn công của đại đội đồng loạt nổ súng, khiến quân địch nháo nhác... Sau ít phút, chúng bắn trả quyết liệt. Hướng chiến đấu của Trung đội 2, địch dùng đại liên, ĐKZ57 bắn xối xả, chặn bước tiến của Trung đội. “Làm thế nào dập tắt được ổ hỏa lực của địch?” - Đào Quang Đới nhìn sang phía bên phải thấy cậu Thái (Thái trắng), chiến sĩ B40 đang loay hoay tìm kiếm mục tiêu, Đới nhanh trí lao tới kéo Thái vào một gốc cây, rồi giương súng AK bắn liền 2 điểm xạ, nói với Thái: “Hãy bắn theo hướng đạn vạch đường của mình, mục tiêu ở chỗ đó”. Lập tức Thái nâng khẩu B40 hướng về mục tiêu, bóp cò, một vầng lửa màu da cam trùm lên dập tắt ngay ổ hỏa lực của địch. Cả đại đội xuất phát xung phong chiếm lĩnh điểm cao 916 và truy kích tiêu diệt quân địch tháo chạy.
Sau nhiều ngày giữa ta và địch giao tranh quyết liệt, Đại đội 1 đã tiêu diệt cơ bản gần hết đại đội Mỹ trên Cao điểm 916, một số tên còn lại chạy dạt xuống chân cao điểm liền bị chốt của Đại đội 5, Tiểu đoàn 8 tiêu diệt gọn. Hành lang cao điểm 916 với A Bia được khai thông. Đây cũng là trận cuối cùng đánh bại cuộc hành quân hỗn hợp của Mỹ lên A Bia. Đơn vị rút về Trạm 49 Đồi Thông. Sau trận chiến đấu, bình xét Đào Quang Đới tiếp tục được đề nghị tặng thưởng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ” lần thứ 3 và Huân chương Chiến công hạng Ba, được kết nạp Đảng vào ngày 29/9/1969 - Đào Quang Đới là đảng viên lớp Hồ Chí Minh đầu tiên sau ngày Bác mất (02/9/1969).
Năm 1970, Đào Quang Đới được điều về làm Trung đội trưởng Trung đội 1, Đại đội 3, Tiểu đoàn 7 thực hiện nhiệm vụ thọc sâu Sông Bồ, tạo bàn đạp để Tiểu đoàn đánh động Kiền Kiền (880), Động Ông Đội, Động A La, tiếp đó là giải phóng Coóc Bai. Năm 1971, anh cùng đơn vị tham gia chiến dịch Đường 9 Nam Lào, đánh một số trận ở Bản Ngan, Điểm cao 405, 619, tiêu diệt Sở chỉ huy Lữ đoàn 147 Ngụy ở điểm cao 550. Đại đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Chiến công nối tiếp chiến công. Năm 1972, Đào Quang Đới được đề bạt làm Chính trị viên Đại đội 3, Tiểu đoàn 7, tham gia chiến đấu ở Đường 12, Động Tranh, Tây Thừa Thiên - Huế. Cùng Ban chỉ huy Đại đội tổ chức chiến đấu tập kích, tấn công địch ở Cù Mông, tiêu diệt 1 đại đội địch tại Điểm cao 559, 1 đại đội địch ở Đồi Củ Lạc, 1 đại đội địch ở Hạt Gạo Bắc và 1 đại đội địch ở Điểm cao 372. Đặc biệt quân địch tập trung hỏa lực đánh phá ác liệt vào Điểm cao 372 nhưng Đại đội 3 của Đào Quang Đới vẫn kiên cường bám trụ, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, giữ thế và tạo để Trung đoàn phát triển giải phóng Động Tranh và truy kích quân địch xuống tận Bình Điền, phía tây thành phố Huế, tiêu diệt thêm 1 đại đội địch ở Sơn Đào.
Năm 1973, Hiệp định Pari ký kết. Sau khi cùng đơn vị thực hiện nhiệm vụ chống địch lấn chiếm ở phía tây huyện Hương Trà, Thừa Thiên - Huế, Đào Quang Đới nhận được điện của cấp trên thông báo, bàn giao đơn vị để đi học. Nhưng để đảm bảo thắng lợi của trận đánh, Đào Quang Đới để xuất với cấp trên cho anh được ở lại chỉ huy chiến đấu nốt trận này, vì trong lúc Đại đội trưởng đang bị ốm, hơn nữa, anh lại là người trực tiếp đi trinh sát nên nắm rất chắc địa hình và tình hình địch. Tiểu đoàn đồng ý để Đào Quang Đới “đóng hai vai”, vừa là Chính trị viên, vừa là Đại đội trưởng trực tiếp tổ chức chỉ huy đơn vị chiến đấu giành thắng lợi giòn giã, sau đó Đào Quang Đới mới bàn giao đơn vị rồi lên đường ra Bắc đi học.
Nơi “đất lành chim đậu”
          Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vốn ham mê môn văn học, lịch sử, nhất là vùng đất Sóc Sơn, nơi có đền thờ Thánh Gióng đã đi vào “Tứ bất tử” trên thần điện của người Việt - biểu tượng cho ý chí quật cường của dân tộc có trên bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Đào Quang Đới ấp ủ ước mơ có một ngày nào đó sẽ được về thăm quê hương Sóc Sơn anh hùng và huyền thoại.
Và ước mơ đó đã thành hiện thực. tháng 3/1973, Đào Quang Đới nhận quyết định đi học lớp đào tạo cán bộ trung cấp của Học viện Chính trị - Quân sự tại Trung đoàn 141, Sư đoàn 312, đóng quân trên địa bàn xã Trung Giã, huyện Đa Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Sóc Sơn - Hà Nội). Quá trình học tập, Đới luôn chăm chỉ, cố gắng. Các bài kiểm tra đều đạt khá giỏi. Tính tình vui vẻ, hoà nhã nên được mọi người quý mến
Vì xa quê (Tiền Hải, Thái Bình) nên hầu như vào các ngày nghỉ lễ, chủ nhật, Đới thường ở lại trường để ôn bài. Rảnh lắm thì đi bắn chim cho vui. Thời đó, khu vực xã Trung Giã chỉ cách núi Sóc khoảng chừng 3 cây số, mật độ dân cư thưa thớt, có nhiều cây to, rậm rạp và cũng là nơi “đất lành” nên chim chóc về nhiều. Chuyện chẳng có gì đáng nói, nếu như chàng học viên trường sỹ quan Chính trị - Quân sự Đào Quang Đới không gặp ông Trạm trưởng Trạm y tế “khó tính” của xã Trung Giã.
Buổi sáng chủ nhật hôm ấy, Đới khoác khẩu súng săn hướng về Trạm y tế xã. Đang trong lúc mải mê quan sát những chú chào mào nhảy nhót trên cành cây xoan - chợt có tiếng gọi làm Đới giật mình:
- Anh bộ đội, vào đây tôi bảo!
Đới vội khóa chốt an toàn, xách súng, bước vào trong nhà lễ phép:
- Cháu chào bác ạ!
Ông Lê Trung Ngạn, Trạm trưởng Trạm y tế xã Trung Giã, trạc tuổi ngũ tuần rót bát nước vối tươi xanh mời khách. Bề ngoài trông ông vẻ lạnh nhạt, khó tính, nhưng khi được tiếp xúc với ông càng thấy dễ gần, hết hỏi chuyện quê quán, hoàn cảnh gia đình, đến thăm dò cảm tưởng của anh bộ đội Đới về phố Nỷ, Trung Giã quê ông. Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên, ông Lê Trung Ngạn và Đào Quang Đới đều có chung sở thích là yêu văn học, lịch sử và triết học Pháp. Hơn nữa, hai người lại có cùng hoàn cảnh (mẹ mất sớm, được bà nuôi dưỡng), nên tình cảm giữa ông Ngạn và Đào Quang Đới thân thiết như cha con.
Ông Ngạn có 5 người con (4 trai, 1 gái), Các anh lớn đều đi bộ đội và công tác xa, chỉ có cô em út: Lê Thị Liên (16 tuổi), giỏi thêu thùa, tính tình nhỏ nhẹ, đoan trang, lại đẹp người, đẹp nết nhất Phố Nỷ ở nhà với bố mẹ.
Như một cơ duyên, chủ nhật tuần sau, Đào Quang Đới ra Bưu điện Phố Nỷ để gửi thư về nhà, trên đường về đơn vị, đang lững thững đi bộ đến đoạn ngã ba rẽ bến đò Vát thì gặp ông Ngạn đạp xe ngược chiều từ cầu Đa Phúc về phố Nỷ. Đào Quang Đới chưa kịp chào hỏi, thì ông Ngạn đã nói giọng dứt khoát như ra lệnh:
- Lên xe!
Đào Quang Đới tự nhiên cảm thấy ái ngại, vì chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa là về tới đơn vị, hơn nữa, mình là bộ đội, thanh niên sức dài vai rộng thế này ai lại... để ông già đèo xe đạp, có mà ngượng chết. Thấy Đới còn chần chừ do dự, ông Ngạn giục “lên xe mau”. Đào Quang Đới ngoan ngoãn chấp hành để ông Ngạn đưa anh về đơn vị. Nhưng thật bất ngờ, thay vì đạp xe ngược  hướng đơn vị, ông Ngạn lại xuôi thẳng về nhà mình. Vào đến sân, ông cười đôn hậu:
- Hôm nay, tôi mời anh về chơi để biết nhà, lần sau anh cứ tự nhiên và coi đây như là nhà của mình.
Sau này, Đào Quang Đới thường xuyên vào nhà ông Ngạn chơi và được  gia đình quý mến, coi anh như người thân trong nhà. Có lẽ xuất phát từ lòng ngưỡng mộ tính cách mộc mạc, chân thành và nghiêm túc của anh “Bộ đội cụ Hồ” mà ông Lê Trung Ngạn ngỏ ý “bật đèn xanh”, tạo điều kiện để Đào Quang Đới tìm hiểu cô con gái diệu của mình. 
Là học viên xuất sắc nên kết thúc khóa học, nhà trường có ý định muốn giữ Đới ở lại để đào tạo làm giảng viên. Nhưng vì ngày ra Bắc học tập, Đới đã hứa với đồng đội sẽ trở lại đơn vị chiến đấu. Trước khi xa Trung Giã nặng nghĩa ân tình, Đới đến nhà ông Ngạn để tạm biệt gia đình. Nắm chặt bàn tay anh, ông Ngạn bỗng nhiên thay đổi cách xưng hô: “Bố có cô con gái, sau này chỉ gả cho bộ đội thôi. Hẹn anh về với Trung Giã nhé!”. Còn Liên, đôi má cô bỗng ửng hồng, vẻ bẽn nẽn nói nhỏ chỉ đủ để hai người nghe: “Em chúc anh chân cứng đá mềm!”.
Tháng 3/1974, sau khi tốt nghiệp ra trường, Đào Quang Đới tiếp tục trở lại miền Nam, được điều về Trung đoàn 3, tham gia giải phóng Thượng Đức. Vào chiến trường chiến đấu, khi có điều kiện, Đới vẫn thường xuyên biên thư về hỏi thăm gia đình ông Ngạn. Tình cảm giữa anh và Liên cứ thế lớn dần lên...
Sau giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, năm 1976, Đào Quang Đới xây dựng gia đình với Lê Thị Liên. Có được người vợ trẻ động viên, như tiếp thêm sức mạnh để anh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao.
Năm 1977, Đào Quang Đới đi làm nhiệm Quốc tế sang giúp bạn Lào, chỉ huy Tiểu đoàn 7 trinh sát mở đường, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân phỉ ở Thăm Lếch, Pha Côi, Boom Lọng, Phu Biagiải, giải phóng một vùng rừng núi rộng lớn, được Đảng, Nhà nước và nhân dân cách mạng Lào tin yêu, mến phục.
Đến năm 1982, ông được điều động về làm Phó ban, sau đó Trưởng Ban Tuyên huấn, Trưởng Ban lịch sử, Phó Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 324, rồi đi học nâng cao chính trị, về công tác tại Ủy ban kiểm tra Quân ủy Trung ương. Sau đó làm Bí thư Đảng ủy, Đoàn phó chính trị, Đoàn Kịch nói Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2006. Và phố Nỷ, Trung  Giã, Đa Phúc (nay là Sóc Sơn - Hà Nội), nơi “đất lành chim đậu” đã trở thành quê hương thứ hai của Đào Quang Đới - Người lính trận A Bia năm nào.
                                                          Nguyễn Thế Hùng
                                 Ban Tuyên giáo Huyện ủy Sóc Sơn
 
BẮT GIẶC LÁI Ở ẤP VUÔNG
(Viết về ông Ngô Văn Bính, xã Tân Minh)
 
Thôn Vệ Sơn Đông, xã Tân Minh, Sóc Sơn có ông Ngô Văn Bính, người  đã “gây” chuyện li kì mấy chục năm trước: tay không bắt sống giặc lái Mỹ. Tìm vào nhà ông không khó, vì nó nằm ngay sát quốc lộ 3, gần thị trấn.
Nhưng khi gặp rồi thì cứ “vướng” mãi cái ý nghĩ: cái nhà ông này, cao trên mét rưỡi một chút, mà dám... Nghĩ thế, mà phải khéo gợi chuyện lắm ông Bính mới bộc bạch đôi chút về hồi ức ly kì kia.
Giữa năm 1966, Mỹ leo thang bắn phá Hà Nội. Ông Bính mới 17 tuổi, nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, vào trung đội dân quân trực chiến của xã, giữ khẩu trung liên. Trận địa đặt trên đồi Bá Lễ, xóm Ấp Vuông, có tầm quan sát tốt, thuận lợi đón lõng máy bay địch từ hướng Tam Đảo vào Hà Nội. Trước đó, trung đội lên huyện học cấp tốc cách bắn máy bay bằng súng bộ binh, ông Bính còn nhớ như in lời chính trị viên Huyện đội Đa Phúc (nay là Sóc Sơn): “Đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, nhưng những người lính Mỹ họ cũng chỉ là những nạn nhân làm bia đỡ đạn cho chúng, nên khi máy bay Mỹ bị bắn rơi, nếu thấy phi công nhảy dù thì tất cả mọi người chúng ta đều phải thực hiện tốt chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước đối với tù binh hàng, trừ trường hợp ngoan cố thì phải hành động để tự vệ”. Mọi người lúc nào cũng lẩm nhẩm ôn luyện cho thật thuộc câu “Hen xơ ấp” (giơ tay lên) để còn biết xử lý khi có tình huống xảy ra.
Ngày 29/6/1966, bầu trời Thủ đô trở nên xanh trong sau một tuần mưa dầm. Sáng tinh mơ, Tân Minh được báo rất có khả năng địch đánh Hà Nội. Cùng các đơn vị pháo cao xạ, trung đội bắn máy bay bay thấp do Trung đội trưởng Ngô Văn Soạn chỉ huy trực chiến 24/24 giờ. Khoảng 11h30, mọi người đang ăn trưa thì kẻng báo động vang lên. Tiếng động cơ mỗi lúc một gần. Để tránh sự phát hiện của ra-đa và các trận địa phòng không mặt đất, 8 chiếc AD6 đen xì như những chiếc vỉ ruồi xuất hiện từ hướng Tam Đảo, bay ở độ cao khoảng 1000 m, cắt theo dãy núi Sóc lao thẳng về phía Hà Nội. Tới khu vực núi Dem, chúng gặp phải lưới lửa của các trận địa pháo cao xạ 57, 37 mm và 12,7 ly từ đồi Thuốc Sâu (Thanh Nhàn), đồi Thống Nhất (Quang Tiến), Phù Linh, đồi Bá Lễ… Ngô Văn Bính nâng khẩu trung liên lên nhằm thẳng chiếc đi đầu, nghiến răng siết cò hết cả băng đạn. Địch hốt hoảng vội nâng độ cao, ngược lên hướng Thái Nguyên để tìm đường ra biển.
… Sau 10 phút, tiếng máy bay và tiếng bom đạn tạm lắng đi, lại báo động. Từ hướng Tam Đảo có 12 chiếc “Thần sấm” (F105 D) ở độ cao khoảng 1.500m, đường bay hoàn toàn khác. Tới gần dãy núi Sóc, bỗng nhiên chúng nâng độ cao bay ngược về phía Thái Nguyên đánh lạc hướng rồi quay ngay trở lại. 4 chiếc tách khỏi đội hình đột ngột ngóc đầu, phơi bụng tềnh hệch định vượt qua đỉnh núi Sóc để vào Hà Nội. Các cỡ súng của ta đồng loạt nhả đạn, lưới lửa dày đặc trùm lên. Một chiếc “Thần sấm” bốc cháy như bó đuốc đâm thẳng về phía Bắc Phú trong tiếng hò reo vang dội cả khu vực đền Sóc. Giữa vầng khói lửa mịt mù, Ngô Văn Bính phát hiện thấy chiếc dù múi đỏ, múi trắng giống như chiếc mũ của trẻ con lơ lửng rơi xuống khu đồng Dộc Dừa. Tháo ngay hộp tiếp đạn có hình thù như chiếc sừng bò trên thân khẩu trung liên, ông chạy như bay qua xóm Ấp Vuông, tắt qua những thửa ruộng mới cày ải để chuẩn bị làm mùa, tới đúng lúc dù vừa tiếp đất. Trên đầu, 11 chiếc F105D lượn đi, lượn lại rải bom bi, phóng rốc két, tạo thành một “vành đai lửa” ngăn chặn, tìm cách cứu thoát đồng bọn. Chiếc dù chụp xuống gần kín thửa ruộng, tên phi công lóp ngóp chui ra từ chiếc dù dính đầy nước và bùn, mặt tái mét.
 - Hen xơ ấp!
Ngô Văn Bính hô lớn. Tên phi công thấy chàng trai thấp bé chỉ đến thắt lưng hắn, trong tay lại không có vũ khí, bèn léo nhéo gọi đồng bọn, tay phải hắn đã rút khẩu côn. Nhanh như cắt, Bính né người sang bên phải, đạn nổ sượt mát tai. Bính thấy tên giặc lái đi giày đinh thụt sâu xuống bùn, chưa gỡ được túm dây dù như  mạng nhện, cứ lùng nhùng như gà mắc tóc, bèn chạy vòng quanh làm nó phải xoắn người như vỏ đỗ bắn với theo. Hết đạn, hắn rút ngay khẩu súng pháo hiệu bên sườn nhằm thẳng vào Bính bắn hai phát nhưng anh đều tránh được. Khi tên phi công sử dụng hết súng đạn, anh dùng mẹo xéo chân vào sợi dây dù đang quàng trên cổ của hắn, làm tên giặc lái đổ ập xuống ruộng. Chiếc mũ văng ra khỏi đầu hắn làm bọn “Thần sấm” trên trời mất liên lạc, đành phải bỏ đi.
  Tên giặc lái chưa kịp bật dậy, Bính nhảy vào định khóa hắn lại. Tay nó to như bọng chân, anh không thể nào nắm xuể. Tên giặc lái rút con dao găm sáng quắc trong quần ra định đâm, Bính cắn mạnh vào cánh tay của hắn. Con dao văng ra, anh chộp ngay lấy con dao và bật người dậy. Tên phi công đã lóp ngóp đứng lên, tay trái vuốt bùn trên mặt, tay phải hắn định đấm vào mặt Bính. Anh  nghiêng người, dùng dao đâm thẳng vào hắn. Mũi dao xiên vào trán, máu trào ra khắp khuôn mặt phờ phạc. Thế là tên giặc lái Mỹ vội giơ hai tay lên trời, lắp bắp bằng tiếng Việt:
- A men con xin lạy ông cho con được sống!
Quần nhau với tên giặc lái cao 2,2 m, nặng 138 kg dưới ruộng nước mới cày ải, Bính kiệt sức và ngất đi đúng lúc mọi người cũng vừa kịp đến.
Viên phi công bị Ngô Văn Bính cho “đo ván” là Đại úy Jons Murphy Nael, có nhiệm vụ dẫn đầu tốp 12 chiếc F-105D đánh phá kho xăng Đức Giang-Gia Lâm, mở màn cho loạt phi vụ oanh kích vào Thủ đô. Gặp lại “ông thiếu nhi Việt Nam”, tức Ngô Văn Bính, hắn tỏ lòng khâm phục hết sức, chắp tay lạy anh ba lần. Bí thư Huyện ủy đưa cho anh khẩu súng trường dong tên giặc lái ra xe về “khách sạn Hintơn”.
Sau lần ấy, Ngô Văn Bính được đi báo cáo điển hình tại Đại hội Chiến sỹ thi đua toàn quốc, nhận Huân chương Chiến công hạng Ba. Được chọn đi du học ở Tiệp Khắc, anh lại viết đơn tình nguyện vào bộ đội. Tháng 10/1966, anh nhập ngũ tại Cục Hậu cần Quân khu Việt Bắc (nay là Quân khu 1) sau đó làm trung đội trưởng tại đơn vị  470B. Tháng 10/1974, vì hoàn cảnh gia đình, ông phục viên với quân hàm thiếu úy… 
Hơn 40 năm qua, Ngô Văn Bính sống hiền hòa, khiêm nhường ở làng quê dưới chân núi Sóc. Mới đây có dịp trở lại thăm ông, thì được tin dân quân Ngô Văn Bính đã qua đời năm 2016, trong lòng tôi bỗng dưng trào dâng xúc động khi nghĩ về ông, một con người nhỏ bé, chân chất ấy, nhưng có mấy ai biết được đó là “tác giả” của “huyền thoại Ấp Vuông” thuở nào...                                                                                 
                                                                              
                                                                                                     Trọng Phúc
BẨY SỢI TÓC THỀ
(Viết về Liệt sỹ Ngô Sĩ Niên, xã Tiên Dược)
 Tôi từng hỏi một số bạn trẻ- những người được sinh ra khi đất nước đã im tiếng súng- rằng: “ Bạn nghĩ gì về hình ảnh người lính- những người lính của thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”? Mỗi người mỗi giọng song họ đều có chung cảm nhận: “Bước vào sách báo, phim ảnh thì dĩ nhiên là đẹp, là “tấm gương trong” rồi nhưng ngoài đời thực làm sao biết…?”. 
Làm sao để biết ư? Thiết nghĩ, chỉ cần có được may mắn cầm tận tay, xem tận mắt cuốn nhật ký dang dở còn loang vết máu hay những lá thư viết vội từ chiến trường khói lửa gửi về cho người thân nơi hậu phương xa xôi thì dấu hỏi lơ lửng trong đầu các bạn sẽ hoàn toàn tan biến. Bởi lẽ tác giả của những trang viết mộc mạc đó, đôi khi còn sai lỗi chính tả, vì họ không có ý định viết văn mà chỉ ghi lại cảm xúc, ý nghĩ thực - rất thực - của mình mà thôi, cho nên nhìn vào đó ta sẽ thấy bóng hình, tính cách và cả trái tim của họ...
CÒN QUÝ HƠN VÀNG
          Đến thăm gia đình liệt sĩ Ngô Sĩ Niên vào một sáng tháng năm đầy nắng. Căn nhà khiêm nhường nằm ven quốc lộ 3 (thôn Miếu Thờ- xã Tiên Dược- huyện Sóc Sơn- TP Hà Nội). Bà Trần Thị Sâm - vợ liệt sĩ - đã bước qua tuổi tám mươi song gương mặt vẫn phảng phất nét đẹp của một thời xuân sắc. Chị Thúy - con gái út của bà - tự hào khoe: “Hồi trẻ, mẹ tôi nức tiếng xinh đẹp, đảm đang nhất nhì trong vùng đấy!”. “Thảo nào, qua những bức thư được đọc, cháu thấy ông yêu thương bà nhiều như thế!”. Bà Sâm khẽ cười để lộ hàm răng hạt na đen nhức, đều tăm tắp rồi ngước nhìn lên bàn thờ, bùi ngùi: “Trước, tôi để ảnh ông ấy ở phía bên kia (bàn thờ chính) cơ, vì bên này sát giường tôi nằm e không được kính trọng, cơ mà có một đêm tôi nằm mơ thấy ông ấy về, đứng cạnh giường nhìn tôi rất lâu rồi nói với vẻ nửa như buồn rầu nửa như trách móc: “Em sợ anh hay sao mà không cho anh được ở gần em?”. Tôi giật mình tỉnh giấc vội thắp hương xin lỗi sau đó mới rước ông sang vị trí bây giờ (cạnh giường nằm của bà) đấy. Sáu năm đi bộ đội, ông ấy gửi về có dễ hơn trăm lá thư. Tôi cho tất cả thư cùng bộ quần áo với cái chăn chiên ông ấy để lại vào một cái hòm gỗ, chuyển nhà đi đâu cũng một đầu quang là con bé này (chị Thúy), một đầu quang là cái hòm, gánh đi trước nhất; Những năm chiến tranh phá hoại sợ bom Mỹ ném trúng nhà còn phải đem xuống hầm cất giấu đấy. Tôi vẫn bảo với hai đứa con đó là báu vật còn quý hơn vàng của mẹ con mình vậy mà mấy đận chuyển nhà lại thêm mối, mọt xông thành thử thư từ kể cả cuốn nhật ký đều không còn nguyên vẹn. Đáng tiếc nhất là lá thư do anh chiến sĩ liên lạc của tiểu đoàn thông tin mà ông ấy là tiểu đoàn phó được ra Bắc an dưỡng, tìm đến tận nhà trao cho tôi; Trong phong bì có…”.
Bà Sâm nghẹn ngào. Chị Thúy nước mắt lưng tròng, đỡ lời mẹ; “Kèm theo thư là sáu sợi tóc nhưng gia đình tôi tin chắc bố gửi bẩy sợi, có lẽ do vội vàng hoặc lý do nào đó một sợi đã rơi ra ngoài!”. Bà Sâm gật đầu: “Chắc chắn thế! Đàn ông bẩy vía cơ mà, tôi hiểu ý ông ấy, bẩy sợi tóc là bẩy sợi tóc thề đó cháu ơi!”.
NHỮNG LÁ THƯ KHÔNG CÓ TỪ “KHÓC”
          Liệt sĩ Ngô Sĩ Niên sinh ngày 20/10/1938. Quê gốc Hưng Yên nhưng theo cha mẹ đi xây dựng kinh tế mới rồi định cư tại xã Tiên Dược, huyện Đa Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Sóc Sơn - Hà Nội). Vốn là một thanh niên hoạt bát, lanh lợi, luôn tận tâm tận lực với nhiệm vụ được giao nên Ngô Sĩ Niên nhanh chóng trở thành hạt nhân của mọi phong trào thi đua yêu nước tại địa phương. 
       Năm 1962, anh nhập ngũ khi đang là cán bộ Đoàn xuất sắc của Huyện đoàn Đa Phúc. Đối với một thanh niên đầy nhiệt huyết cách mạng như Ngô Sĩ Niên, ngày khoác lên mình bộ quân phục màu xanh là ngày đặc biệt đáng nhớ. Trong lá thư đề ngày 11/4/1962, anh viết: “Em Sâm! Hôm nay là ngày anh tự hào được là một người chiến sĩ quân đội bảo vệ Tổ Quốc…”. Niềm tự hào ấy là động lực mạnh mẽ để anh vượt qua mọi khó khăn đạt nhiều thành tích tốt trong học tập và rèn luyện, trở thành một quân nhân gương mẫu. Bước chân vào đời quân ngũ, Ngô Sĩ Niên đã xác định tư tưởng cho mình: “… hình ảnh ấm cúng của hai con và gia đình giờ đây anh phải hy sinh tất cả và em cùng hai con cũng phải hy sinh tình cảm ấy để nhường lại cho Cách mạng, gác lại bên lòng để tập trung vào hiến hết sức mình cho Đảng…” bởi thế dẫu trong lòng luôn cánh cánh nỗi nhớ thương, lo lắng cho người thân nơi quê nhà; Thương người mẹ già suốt đời chưa một ngày nhàn hạ, thương đứa em gái nhỏ thiệt thòi chẳng biết mặt cha và nhất là thương người vợ tảo tần hai vai gánh nặng việc nước việc nhà, thương con còn thơ dại... song chưa bao giờ tình cảm riêng tư khiến anh nhụt chí. Ai có thể không xót xa khi được đọc lá thư viết ngày mùng bảy tháng mười hai năm 1962 - một lá thư trong nhiều lá thư của anh không có từ “khóc” mà đẫm đìa nước mắt. Đó là ngày nhận bức điện người nhà báo tin đứa con gái bé bỏng của anh qua đời. Công việc của đơn vị đang trong giai đoạn cực kỳ khẩn cấp. Cán bộ cho anh quyền quyết định. Về hay ở? Tình phụ tử hay trách nhiệm người lính? Cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt diễn ra trong im lặng và Ngô Sĩ Niên đã chọn trách nhiệm. Không muốn ảnh hưởng đến tinh thần đồng đội, không muốn việc quân bị ảnh hưởng, anh nén chặt nỗi đau trong lòng, “…giờ phút này chỉ có núi rừng hiểu cho anh thôi!”.
          Có điều đặc biệt, trong tất cả những lá thư viết về nhà, Ngô Sĩ Niên hầu như không kể chút gì về nỗi thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy mà anh và đồng đội ngày đêm phải đối mặt nơi chiến tuyến ngoài mấy dòng ngắn gọn: “…mồng 1 Tết và mồng 2 anh vẫn hành quân vượt bao gian khổ khó khăn đến mồng 3 ăn Tết mồng 4 lại đi…Tết của anh là thịt bò, 3 điếu thuốc lá, hai bát chè…” hoặc trong trang nhật ký: “…Thôi em Sâm và hai con ơi đêm đã khuya rồi… giờ chiến đấu đã đến rồi sống anh sẽ trở về với em và các con. Anh có hy sinh em và các con cũng vinh dự có người chồng và người cha chết quang vinh phụng sự Tổ quốc”. Phải chăng anh không muốn vợ và người thân lo lắng hay bởi tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, điềm tĩnh: “…tuy chiến tranh ác liệt nhưng anh vẫn đàng hoàng còn cái chuyện đánh giặc là bình thường, cái chuyện chiến tranh phải đổ máu là lẽ dĩ nhiên…”. Người lính nói chung, Ngô Sĩ Niên nói riêng rất bình thản coi sự hy sinh giống như “Anh nông dân cày xong thửa ruộng/ Ngả mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành” song cũng hơn ai hết, anh và đồng đội khát khao được sống, khát khao “...mong sao ngày kia hết giặc anh trở về sống cảnh gia đình bên vợ bên con êm ái!”.
          MÃI MÃI CHUNG TÌNH BÊN EM...
         Chồng hy sinh khi bà Sâm chưa tròn ba mươi tuổi, có nhan sắc lại nết na, muốn đi bước nữa không phải chuyện khó song bà vẫn ở vậy thờ chồng, nuôi con. “Tôi và ông ấy đã hứa sẽ không bao giờ phụ nhau với lại làm gì có người đàn ông nào yêu thương mẹ con tôi như ông ấy cơ chứ!”. Theo lời kể của bà và qua những lá thư còn lại thì chân dung Ngô Sĩ Niên là thế này đây: Cao ráo, trắng trẻo, hoạt bát, giàu nghị lực, giàu tình cảm, lãng mạn, có chí tiến thủ lại còn rất chung tình. Một người đàn ông hội tụ nhiều ưu điểm như vậy không nhận được sự cảm mến từ “đội quân tóc dài” mới là lạ, song với anh tất cả chỉ dừng lại tình đồng đội, tình quân dân còn tình yêu anh gửi trọn cho một người duy nhất. Trong bức thư trước ngày lên đường vào Nam chiến đấu, Ngô Sĩ Niên viết: “…lúc nào nhớ em quá thì anh lại bảo với các bạn anh vợ tớ tên là Sâm, đẹp lắm và Sâm ngọt, mát và bổ lắm. Khi ấy có cô nào hỏi thì anh lại bảo vợ tôi có bốn con mà đẹp hơn các cô nhiều. Anh đặt chuyện như vậy nên khách quan không ảnh hưởng tới anh nhiều…”. Quãng thời gian chờ đợi chuyến đi vào tuyến lửa dường như rảnh rỗi lúc nào là Ngô Sĩ Niên tranh thủ biên thư về cho vợ và người thân lúc ấy. Những lá thư dài. Ta cảm nhận rõ sự bồn chồn, day dứt, giằng xé, đan xen nhiều cảm xúc trong lòng người chiến sĩ qua nét chữ rất tháu, câu cú lộn xộn, rối rắm. Anh dặn dò vợ “…hãy cư xử với họ hàng làng xóm tốt hơn nữa…”, “tích cực làm hợp tác xã, phấn đấu để tiến bộ…”, “… luôn động viên mẹ, chăm sóc mẹ, đừng để mẹ và em Huệ buồn…”…Và điều anh thường xuyên nhắc đi nhắc lại là: “…Em Sâm và hai con thương yêu ơi! Nếu mỗi khi nhớ anh thì hãy cười lên, hãy cười lên để phá tan đau khổ, hãy cười lên nhưng không nên cười trong nước mắt vì thương nhớ anh vì nếu lòng thương như nước mắt mà khóc đến khi hết nước mắt có lẽ cũng hết tình thương… thương anh bao nhiêu thì em cố chịu đựng gian khổ nuôi nấng các con cho con ngoan, con sạch, con giỏi. Để các con đói khổ là thiếu lòng thương anh…”. Người lính nào cũng hiểu một khi đã dấn thân vào nơi “mưa bom, bão đạn” thì gần như chẳng có ngày về. Vì tình yêu thương, người thì khuyên vợ (hoặc người yêu) đi tìm hạnh phúc mới, tuy nhiên số khác, trong đó có Ngô Sĩ Niên lại mong mỏi nửa kia của mình điều ngược lại: “Em Sâm, anh biết em yêu anh da diết có thể dù hoàn cảnh nào em cũng tin và yêu thương anh là người chồng có sức yêu thương mãnh liệt mà dù có hoàn cảnh thuận lợi nào cũng không thể cám dỗ nổi em thay đổi cái chân lý vĩ đại của vợ chồng ta được. Anh sẽ tin ở điều ấy là em sẽ làm được…”. Nỗi lòng của Ngô Sĩ Niên có thể gói gọn trong hai câu thơ do chính anh làm: “Ra đi mắt vẫn dõi trông/ Nhìn về phương Bắc mà lòng nhớ thương”.
          Nếu miền Bắc là hậu phương lớn của tiền tuyến thì gia đình chính là hậu phương nhỏ, là điểm tựa của mỗi người lính. Ngô Sĩ Niên khẳng định sức mạnh to lớn của gia đình qua trang thư: “…Còn anh thì mặc dầu chiến đấu có gian khổ song vẫn giành thời gian ngắm lại tấm hình mẹ con em. Trong chiến đấu nhìn ảnh người yêu thương thì lại tăng thêm sức lực diệt hết lũ giặc, thống nhất nước nhà để trở về sống trong cảnh gia đình êm ấm… (Miền Nam ngày 10/10/1968)”
          Yêu vợ bao nhiêu, Ngô Sĩ Niên lại thương con bấy nhiêu. Anh thương hai “con chim non” còn bé bỏng đã phải sống cảnh thiếu vắng vòng tay che chở của cha! Liệu rằng có hay không ngày cha được bù đắp thiệt thòi đó cho các con? Cảm giác lâng lâng trong niềm hạnh phúc vô bờ khi tay dắt con trai, tay bồng con gái, sóng đôi cùng vợ dảo bước trên con đường làng thân thuộc rợp bóng tre xanh trở thành nỗi nhớ khôn nguôi trong lòng Ngô Sĩ Niên. Chắc hẳn vào một buổi chiều muộn nào đó ở nơi đóng quân, trong giây phút yên ả hiếm có của chiến tranh, Ngô Sĩ Niên lặng ngắm mây trời núi non, tai nghe tiếng bò mẹ gọi con, tiếng cười đùa hồn nhiên của mấy đứa trẻ, lòng chợt nhớ quê nhà quay quắt. Nỗi nhớ đưa anh về với mái nhà tranh giản dị trong đó có vợ và hai đứa con thân yêu. Nỗi nhớ dâng trào thành những vần thơ mộc mạc mà đong đầy cảm xúc: “Bao giờ giết hết ngoại xâm/ Thì cha trở lại cùng trong gia đình”.                                                 
          “Thì cha trở lại cùng trong gia đình”- mong ước và hiện thực cách nhau vỏn vẹn một trận  đánh (bởi sau đó anh sẽ được ra Bắc), song nghiệt ngã thay, đó lại là trận đánh vô cùng ác liệt - có thể coi là trận quyết tử với kẻ thù để giành lại đất - Ngô Sĩ Niên rất hiểu điều ấy nên đã nhổ bẩy sợi tóc cho vào bì thư và viết cho vợ với lời dặn dò tuy buồn da diết song không chút bi lụy: “Em Sâm ơi! Đây là tóc thề, tóc của người chồng, anh gửi cho em làm kỷ niệm. Anh gói vào giấy, khi nào mở thư em xem và giữ cẩn thận kẻo mất. Khi nào nhớ anh, em mở ra xem, cho các con và mọi người cùng xem. Đến khi em chết sẽ chôn cùng bẩy sợi tóc thề, để vợ chồng mình luôn được ở bên nhau… (thư viết ngày16/10/1968).
            Liệt sĩ Ngô Sĩ Niên hy sinh năm 1968 nhưng bốn năm sau (1972) mới chính thức có giấy báo tử. Những người tham gia trận đánh đêm hôm đó hết thảy đều hy sinh nên gia đình chỉ biết lờ mờ rằng Liệt sĩ nằm lại bên một cây cầu chữ Y nào đó ở mặt trận phía Tây mà mặt trận phía Tây rộng lớn có hàng mấy trăm cây cầu, làm sao biết đích xác nơi nào? Chính vì thế, tâm nguyện đưa hài cốt ông về nhà của bà Sâm và các con cháu cho đến nay vẫn chưa thể thực hiện. “Có lần, bố tôi báo mộng với tôi rằng bố đi theo Bác Hồ nên không cần tìm kiếm làm gì. Bố lại bảo, mỗi ngôi sao trên trời là một anh hùng liệt sĩ, nếu khi nào nhớ bố, con hãy ngước nhìn lên thấy ngôi sao nào đang nhấp nháy thì chính là bố đấy. Bố vẫn luôn dõi theo và che chở cho cả nhà mình!”- Chị Thúy thầm thì với giọng thành kính.
          Vâng! Tôi cũng tin mỗi ngôi sao lấp lánh trên bầu trời là linh hồn của một liệt sĩ. Có thể máu xương của họ đã hòa vào Đất Mẹ song hình ảnh của họ, tinh thần của họ thì còn mãi muôn đời. Tôi xin được kết thúc bài viết này bằng một đoạn trong nhật ký của Liệt sĩ Ngô Sĩ Niên: “ Em Sâm ơi, có một nhà văn đã nói “Dù đời ta chỉ sống có hai mươi năm tuổi xuân ngắn ngủi mà có ích cho xã hội còn hơn sống một trăm tuổi mà vô ích” chính câu nói ấy đã thôi thúc anh giờ phút hy sinh cho Đảng, cho Cách mạng, cho nhân dân mà không lùi bước trước một sự hy sinh cần thiết nào. Có như vậy thì con Đại, Thúy mới được cắp sách tới trường, vui ca trong đêm hội và em mới trẻ và đẹp thêm ra. Có như vậy Nam Bắc mới một nhà, dân ta mới được giải phóng, hạnh phúc mới ấm no”.
                                                                                                                                                                                               Ngô Minh Hằng           
 
NgưỜi chỈ huy trinh sát “Công trưỜng BẢy” can trưỜng, quẢ cẢm
 
(Viết về Liệt sỹ Đoàn Nhiên, xã Phù Lỗ)
Câu chuyện về trinh sát Sư đoàn 7 miền Đông Nam Bộ còn đang dang dở thì tin dữ, nguyên chỉ huy trinh sát Sư đoàn lừng danh đường 13 là ông Đoàn Nhiên đột ngột ra đi vì bạo bệnh, tại Khu đường 3 xã Phù Lỗ…
Không chỉ tiếc thương một chỉ huy trinh sát can trường, các cựu chiến binh còn xót xa khi một kho sử sống của “Công trường Bảy” bỗng dưng đứt đoạn… rất nhiều câu chuyện chiến đấu của đơn vị ông mang đi theo, chỉ còn rất ít trên con chữ dòng nhật ký chiến đấu đã nhàu nát.
Người thân của anh, ông Đoàn Thủ là anh trai, khi ông Thủ còn sống kể, Đoàn Nhiên gan lì, rất ít thư về Bắc. Chỉ biết tin qua đồng đội.
Anh Đoàn Văn Sơn, con trai lớn của Đoàn Nhiên đưa cho tôi cuốn nhật ký, mực đã nhòe qua thời gian… công phu dựng lại, dần dà hai anh em cũng đã phục hồi lại cuộc chiến gian nan của trinh sát Sư đoàn Bảy, gần giống như câu chuyện mà một ngày chưa xa, ông đã kể cho phóng viên Báo Quân đội nhân dân.
Cuộc chiến ở Tàu Ô - Xóm Ruộng lúc này kéo dài đã hơn hai tháng. Tướng Cao Văn Viên đã tung ra hơn một nửa lực lượng cơ động Vùng 4 chiến thuật và một bộ phận lực lượng tổng trù bị chiến lược. Tổng số có tới 10 lần chiếc pháo đài bay B52; 7.500 lần chiếc máy bay chiến thuật, ném khoảng 39.300 tấn bom; sử dụng 4.500 lần chiếc trực thăng vũ trang Mỹ và hơn 60 khẩu đại bác các loại trực tiếp bắn yểm trợ cho mặt trận này.
KHÚC ĐƯỜNG MÀU LỬA
Chiến trường đường 13, Lai Khê, Chơn Thành, ngược lên An Lộc[3] đầu năm 1972 bỗng trở lên nóng bỏng, bởi đường 13 bị Sư đoàn 7 Quân Giải phóng cắt đứt. An Lộc bị cô lập, chỉ còn tiếp tế bằng đường không.
Các phân đội trong sư đoàn 7 miền Đông lúc này xây dựng bằng được các “Đại đội mạnh, Đại đội chiến đấu giỏi”.
          Mùa khô sắp hết, trời miền Đông xanh thắm, không gian ngập tràn nắng và gió. Trinh sát sư đoàn rải ra khắp vùng, nắm địch, đêm đội sương, ngày vùi đất, nhiều khi nằm trơ trọi cả ngày ngoài trảng trống.
 Nhiên và anh em đại đội trinh sát không nghỉ, phân tích, báo cáo tình hình nắm địch và địa bàn. Thực tế từ Lai Khê lên thị xã Bình Long tương đối bằng phẳng, trong đó đoạn từ ngã ba Xóm Ruộng tới nam Tân Khai là khu vực “nhạy cảm nhất”, địch tập trung quân, có ý đồ phá chốt khúc này.
Tháng 1 năm 1972, cấp trên đã chỉ thị: “Bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ bằng được khu vực Tàu Ô, Nam Tân Khai để tạo thời cơ và điều kiện dứt điểm Chi khu Lộc Ninh và tiến công Tiểu khu Bình Long”.
Nhiệm vụ là “Chốt cứng, chặn đứng, không cho một chiếc xe, một tên địch nào vượt qua trận địa chốt của ta!” Muốn “chặn đứng” phải “chốt cứng” kết hợp vận động tiến công.
Gian nan nắm địch, Đoàn Nhiên chỉ huy một phân đội trinh sát sư đoàn phát hiện từng thủ đoạn điều quân. Địch điều Lữ Dù 3 từ Tây Nguyên về Sài Gòn; ngày 26 đổ xuống Tân Khai, hình thành ba cụm ở đông và tây đường 13. Chiêu đầu tiên, quân ngụy đổ 2 Trung đoàn xuống Tân Khai bằng trực thăng, thực hiện “kiểu nhảy cóc”. Một thiết đoàn tăng số 9, vòng qua Tàu Ô, bỏ qua khu chốt, tránh chỗ mạnh, lao lên Tân Khai, làm căn cứ bàn đạp tấn công lên An Lộc. Nhưng chúng không ngờ, ta có lực lượng lót ổ xung quanh Tân Khai, là Trung đoàn 141, Trung đoàn 165… Địch bị đánh phủ đầu, ta diệt hầu hết các chi đoàn thiết giáp của Chiến đoàn 9. Thực hiện cắt bộ binh với chiến xa, khiến chiêu đầu tiên gãy vụn!
Lợi dụng ta thay quân, địch ngay sau đó tiến đánh, chiếm khu cống Ông Tề. Trinh sát ta nắm chắc, bám địch từng giờ, báo cáo chỉ huy. Ta điều ngay Trung đoàn 141 từ Tân Khai xuống hỗ trợ 209 giành lại khu vực vừa bị mất, khôi phục thế ban đầu.
Từ ngày 21-6, thế trận ác liệt mới thật sự bắt đầu. Địch tập trung binh lực, hỏa lực, gồm hai Trung đoàn bộ binh, một Lữ đoàn dù, một thiết đoàn số 3, tiến đánh thẳng vào Tàu Ô, hòng nhổ bằng được chốt đường 13. Chính diện của đợt tiến công rộng tới một ki-lô-mét. Máy bay, pháo binh, xe tăng gầm rú, đột phá liên tục vào trận địa cả ngày và đêm.
Cho đến ngày 23 tháng 6, với chiến thuật “vận động tiến công, kết hợp chốt”, Sư  đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy chỉ huy các hướng, chi viện Trung đoàn 209 bẻ gãy từng đợt tiến đánh. Không nhổ được chốt, bị đánh trả, địch phải lui về phía nam 4 km, dùng hỏa lực mạnh, pháo, bom, rốc két và cả B52 đánh vào khu chốt.
Pháo từ Chơn Thành bắn vào trận địa mỗi ngày 10 vạn viên trước chính diện chỉ rộng 2.000 mét vuông! Máy bay chiến thuật AD-6, A37, xuất kích mỗi ngày 40 lần chiếc! Máy bay B52 trải nhiều BOX bom phá cả ngày đêm, khiến một vùng đất hẹp bị cày xới đảo lộn.
          Cuộc chiến ở Tàu Ô - Xóm Ruộng lúc này kéo dài đã hơn hai tháng. Tướng Cao Văn Viên tung ra hơn một nửa lực lượng cơ động Vùng 4 chiến thuật và một bộ phận lực lượng tổng trù bị chiến lược. Tổng số có tới 10 lần chiếc pháo đài bay B52; 7.500 lần chiếc máy bay chiến thuật, ném khoảng 39.300 tấn bom; sử dụng 4.500 lần chiếc trực thăng vũ trang Mỹ và hơn 60 khẩu đại bác các loại trực tiếp bắn yểm trợ cho mặt trận này; với những thủ đoạn đánh phá tàn bạo, khi thì dùng đội hình lớn có xe tăng mở đường, khi thì dùng chiến thuật đổ chụp, khi lại chia thành nhiều hướng chia cắt, hợp vây chốt Tàu Ô.
          Trinh sát của ta trong bụi đất, trong “rừng mảnh đạn pháo bom”, lầm lũi nắm chắc địch hàng giờ, nhiều đồng đội của Đoàn Nhiên đã ngã xuống.
Nhiều anh em cả ngày chỉ còn nắm cơm khô và bi đông nước, vẫn kiên gan đánh địch. Trinh sát kỹ thuật áp tai nghe, phán đoán, loại suy, chắp nối từng nhóm điện thu được, dựng lên thủ đoạn mà địch đang tiến hành, kịp báo về cơ quan tác chiến.
Gian nan giữ chốt, Trung đoàn 209 nhận lệnh truyền từ Trung đoàn trưởng Vũ Việt Hồng, quyết không cho một tên lính nào, một chiếc xe nào vượt qua khỏi chốt Tàu Ô. Số thương vong của địch tăng vọt.
Tàu Ô chính là một sự thách đố trớ trêu, một nỗi nhục giày vò tướng tá Ngụy. Tướng Ngụy Nguyễn Vĩnh Nghi, Sư đoàn trưởng Sư 21 cũng phải thốt lên: “Mặt đất Tàu Ô bị bắn phá còn loang lổ ghê gớm hơn cả hình ảnh mặt trăng. Tôi không hiểu sao cộng sản lại sống được ở đó, để chặn đứng được tất cả các cuộc tiến công!”.
TRINH SÁT CAN TRƯỜNG
          Lại nói về quân Việt Nam cộng hòa, sau chiêu đầu tiên bất thành, tướng Ngụy Lê Văn Tư, chỉ huy phá chốt đổi ngay chiến thuật. Y chủ trương đánh vào phía sau chốt phòng ngự của ta tại Tàu Ô. Chúng thực hiện phân bố rộng đội hình, chặn đường tiếp tế từ phía sau, khiến ta nguy ngập.
Chiêu khác, ở phía trước chúng tập trung từng đợt bộ binh xe tăng tập kích ào ạt, liên tục, kéo dài, nhiều hướng.
Trinh sát Sư đoàn rất nhanh nắm được thủ đoạn của địch. Nghe Đoàn Nhiên tổng hợp từng giờ, trên động viên anh em thay nhau bám trụ, sử dụng nhiều loại súng chặn đich. Pháo sư đoàn chi viện rất kịp thời cho 209. Nhờ hầm chữ A, các chốt của 209 vẫn vững. Đêm đêm, Trung đoàn tổ chức thay quân, bảo đảm bộ đội ăn nghỉ tốt, việc cứu chữa thương binh đặc biệt chu đáo. Nhiều thương binh vừa lành vết thương đã xin ra giữ chốt. Tin thắng trận, chặn địch thành công nức lòng chiến sĩ.
Lần thứ ba, Sư đoàn 25 Việt Nam cộng hòa tức tối lại đổi chiến thuật, chúng phân tán thành các cụm, dàn đội hình đóng xen kẽ với các chốt của ta, kiềm chế, phá thế liên hoàn mà ta thường yểm trợ cho nhau, chặn phía sau ta lên tiếp ứng.
Trinh sát ta bám nắm, Đoàn Nhiên phân tích, nhanh chóng phát hiện ra, chính chúng cũng cần tiếp ứng. Trên đối phó, điều các phân đội triển khai cách đánh mới, khóa các đường mòn địch tiếp tế ban đêm. Cách khóa đường này rất hiệu quả. Bị triệt nguồn cung cấp, địch hoang mang, không chịu được thiếu thốn, phải rút, từ bỏ lối đánh xen kẽ!
Cay cú, lần thứ tư quân Việt Nam cộng hòa tiếp tục thay chiến thuật. Lần này lính Sư đoàn 25 thực hiện thủ đoạn gây căng thẳng thường xuyên trên diện rộng của toàn tuyến phòng ngự. Ban ngày chúng sử dụng hỏa lực bắn bừa bãi. Nhiều xe tăng cùng bộ binh liên tục tổ chức những đợt đột kích hòng chọc thủng tuyến phòng ngự; ban đêm nhiều tốp biệt kích thám báo xâm nhập trận địa khiến bộ đội ta mất ăn mất ngủ, căng thẳng, sức khỏe giảm sút nhanh. Địch tung các nhóm biệt kích kiểm soát khoảng trống giữa các chốt của ta.
 Lần này trinh sát ta lại phát hiện ra, nghe Đoàn Nhiên phân tích có lý về hành động của địch. Chỉ huy Sư đoàn 7 chuyển đổi phương thức. Sư đoàn phó Lê Nam Phong lệnh các hướng, chủ động tổ chức bộ đội đón lõng phục kích bên ngoài chốt, phát huy sở trường đánh đêm, chặn địch từ sớm, nhanh chóng kiểm soát khoảng trống giữa các chốt… Lại một thủ đoạn nữa của địch bị thất bại.
Lúc này một số chốt của phía ta tạm thời bị cô lập, quân Việt Nam cộng hòa gọi B52 đánh phá liên tục ba ngày liền. Dưới mưa bom dày đặc, các chiến sĩ của Sư đoàn 7 động viên nhau đào hầm, kiên cường trụ vững.
Ta lường được thủ đoạn mới lần thứ 5 của địch. Đúng như ta dự đoán, “sau bom là tấn kích”. Quân Việt Nam cộng hòa tưởng quân ta bị bom B52, bom A-37, đạn pháo liên hồi từ hàng chục trận địa san bằng, chúng cho xe tăng và xe bọc thép của các chi đoàn thiết kỵ xông lên bao vây các chốt. Nhưng chúng không tiến vào tầm bắn hiệu quả của B40, B41 như trước, mà đứng từ xa nã pháo khá chính xác. Thủ đoạn mới này của địch gây cho ta thương vong khá nhiều. Có đại đội sau một ngày chiến đấu chỉ còn bốn, năm tay súng. Nguy cơ mất chốt có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Chỉ huy Trung đoàn 209 vắt óc tìm cách đối phó. Trên lệnh cho các phân đội tổ chức nghi binh bằng hầm chốt giả, treo mũ sắt nhấp nhô, thấp thoáng trong các chiến hào để lừa địch.
Trong khi đó, các chốt thật được cải tạo lại, hạ thấp độ cao ngụy trang khôn khéo, khiến tầm quan sát từ xa trên xe tăng của địch bị mất hút. Giờ đây chốt được lẩn trong những đám cây, mặt ruộng bình thường. Đoàn Nhiên báo cáo về, địch bị thu hỏa lực mạnh vào các mục tiêu giả, tự chúng bộc lộ lực lượng, quả nhiên trúng ý đồ của ta. Đây là cơ hội, Trung đoàn 209 ra lệnh các nhóm bắn tỉa của ta ra đòn, diệt chúng chính xác.
Các chốt còn tổ chức bộ đội thành nhóm nhỏ thoát ly công sự, đêm tối tập kích xe tăng và bộ binh địch. Cách đánh gần của ta gây cho địch hoảng sợ, không còn phân biệt thực hư ra sao.
Trinh sát Sư đoàn lúc này lại phát hiện qua liên lạc của địch với nhau, quân Việt Nam cộng hòa bắt đầu nảy sinh khó khăn do căng thẳng vì bị đánh lẻ. Cường độ đánh trả giảm dần.
Phối hợp với mặt trận Tàu Ô, Sư đoàn 7 tổ chức đánh các mục tiêu ngay vùng trung tuyến, khiến phía địch hoang mang, lo sợ. Tăng phái bao nhiêu cho đường 13 cũng không hiệu quả, giờ đây không khéo mất địa bàn trung tuyến, uy hiếp Bắc Sài Gòn.
Tuy quân chưa rút hoàn toàn nhưng lần thứ năm chiến thuật phá chốt bị phá sản. Không phá được chốt, coi như thất bại thảm hại.
          Đường 13 giờ đây là con lộ khủng khiếp nhất, đối với những Sư đoàn, Lữ đoàn quân Sài Gòn bị ném vào khúc ”tử thần” này.
          Những chiến sĩ trinh sát “Công trường Bảy” tự hào từ những ngày đêm nằm sương, bới đất, nhịn đói chịu khát can trường nắm địch, nào Cà Tum, Bổ Túc (Tây Ninh), Bắc Lai Khê, Tân Phú Trung… đến Sông Bé, Bình Long, nay là đường 13 kiên cường, quả cảm.
Hằng trăm chiến sĩ Sư đoàn 7 đã nằm xuống, bên con đường máu lửa, trong hơn 150 ngày đêm chốt chặn oai hùng.
***
Gần 50 năm trở về hậu phương, đại đội trưởng trinh sát Đoàn Nhiên trở thành ông lang, khám, chữa bệnh cho hàng ngàn người. Những vị tướng một thời trận mạc ở Miền Đông như Đàm Văn Ngụy, Nguyễn Thế Bôn, Lê Nam Phong, Vũ Việt Hồng… mỗi lần xuống sân bay, qua Sóc Sơn (Hà Nội) quê anh, vẫn nhớ ghé thăm Đoàn Nhiên, người chỉ huy phân đội trinh sát quả cảm đầy mưu trí.                                          
                                                                               Trần Danh Bảng
TẾT CHIẾN TRƯỜNG
(Viết về CCB Nguyễn Hoàng Đạo, xã Đông Xuân)
Chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là đến Tết cổ truyền của dân tộc. Lệnh ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam bắt đầu có hiệu lực nên cánh lính tráng chúng tôi tạm thời được ngơi tay súng chuẩn bị đón Tết Ất Tỵ (1965). Ai cũng có cảm giác háo hức, hồi hộp, mong chờ một điều thật thiêng liêng và tốt lành nhất sẽ đến trong năm mới.
Theo sự phân công, Đại đội 94 hỏa lực (Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 22, Sư đoàn 3- Sao Vàng) chúng tôi về thôn: Tấn Thạnh, Chợ Cát thuộc xã Hoài Hảo,  huyện Hoài Nhơn, nơi chiến trường ác liệt của tỉnh Bình Định. Tiểu đội tôi “tạm trú” trong một ngôi nhà vắng chủ (ở khu vực này hầu hết các hộ dân đều bị địch dồn ép vào các khu tập trung nên nhiều nhà bỏ trống). Chiều ba mươi Tết, sau khi quét tước, dọn dẹp sạch sẽ nhà cửa, anh em trong tiểu đội chia nhau ra vườn tìm kiếm những thứ hoa quả còn sót lại sau những trận pháo kích của địch để chuẩn bị làm lễ đón giao thừa. Dù đang thời chiến, dù chỉ là nơi ở tạm thì cũng phải đàng hoàng, tươm tất nhất có thể.
Sau một hồi “lùng sục”, thành quả chúng tôi thu được gồm một buồng chuối ngự chín vàng, một buồng dừa xiêm, ít khoai lang chà, chục bánh đa và quan trọng nhất là một bát dầu dừa. Trong khi anh em lo chặt những tàu dừa để kết thành bàn thờ, bày biện hoa quả thì tôi xé cuốn băng cứu thương vê vê lại làm bấc, đổ dầu dừa vào mấy cái bát mẻ rồi đốt lên, thế là cả căn nhà bừng sáng.  
Vừa lúc đó, đại đội trưởng Nguyễn Văn Đợi bước vào, theo sau là một cô gái trẻ măng, ước chừng mười sáu, mười bảy tuổi, dáng người nhỏ nhắn trong bộ bà ba đen, đầu đội mũ tai bèo, vai đeo chiếc túi cứu thương to tướng. Cả lũ cánh lính chúng tôi bỗng dưng ngây đuỗn mặt, trố mắt nhìn cô gái như chưa bao giờ được thấy... Vẻ bẽn lẽn, ngại ngùng, cô gái cứ núp sau lưng đại đội trưởng Đợi. Của đáng tội, lâu lắm rồi chỉ lo việc đánh đấm, chúng tôi có được tiếp xúc với cô gái nào đâu. Đại đội trưởng phì cười, quát: “Mấy ông tướng, mồm miệng đi đâu hết rồi hả? Mời khách vào nhà đi chứ!”. Đại đội trưởng vẻ trịnh trọng: “Giới thiệu với anh em, đây là đồng chí Trần Thị Kính, y tá của xã Hoài Hảo được bổ sung “biên chế” về đại đội ta; Còn giới thiệu với em Kính, đây là tiểu đội trưởng Hoàng Đạo cùng anh em trong tiểu đội hỏa lực, thuộc đại đội 94, tiểu đoàn 9, Trung đoàn 22, Sư đoàn 3 - Sao Vàng”.  Anh Đợi quay sang tôi như nói với tất cả mọi người: “Này, tin tưởng lắm tớ mới giao cô y tá này cho tiểu đội cậu đấy nhé, tất cả phải có trách nhiệm giúp đỡ em Kính hoàn thành nhiệm vụ, rõ chưa?” - “Rõ!” - chúng tôi đồng thanh thật to.
          Đại đội trưởng Đợi co tay xem đồng hồ, giọng tự nhiên nhẹ bẫng: “Giao thừa rồi!”. Chúng tôi không ai bảo ai, tất cả đều đứng dậy, chỉnh đốn lại trang phục chỉnh tề, hướng mắt về phía bàn thờ. Nét mặt ai cũng rưng rưng xúc động. Trong mùi hương ngan ngát, trong bầu không khí trang nghiêm, thời gian như ngưng đọng. Tâm trí tôi trôi về miền Bắc… Nhớ những mùa Tết đã qua ở ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Vĩnh Phúc quê hương… Đúng vào giây phút giao thừa, anh cả tôi mặc bộ quần áo mới nhất, trịnh trọng thắp nén hương thơm lên bàn thờ Tiên Tổ, cha mẹ và cả nhà quây quần bên chiếc đài bán dẫn nhỏ xíu lắng nghe lời chúc Tết của Bác trong tiếng pháo nổ giòn, giữa tiết trời se lạnh đầu xuân… Trong giây phút trời đất giao hòa, tôi lại nhớ tới những người đồng đội thân yêu vào đêm Tất niên năm ngoái, tất cả họ vẫn còn ở bên tôi, hút chung điếu thuốc lá, kể cho nhau nghe câu chuyện “làng tớ”… vậy mà giờ đây sau những trận chiến đấu vô cùng khốc liệt, đã đôi nẻo âm dương cách biệt...
Tiếng đại đội trưởng Đợi dõng dạc cắt ngang luồng suy nghĩ của tôi: “Chúc các đồng chí đón Tết vui vẻ! Năm mới thêm sức khỏe, đánh giặc giỏi, lập nhiều chiến công mới!”. Cả tiểu đội vỗ tay, nối tiếp nhau chúc lại người chỉ huy đáng kính. Không khí đón giao thừa vui trở lại. Tôi rót rượu ra bát to, mời đại đội trưởng uống trước sau đó chuyền tay nhau mỗi người một hớp. Chúng tôi vừa uống rượu, ăn bánh đa, cùi dừa vừa thi nhau hát hò rôm rả. Trước sự thân tình, cởi mở của tiểu đội, nữ y tá Kính dần dần cũng mạnh dạn hơn. Có chút rượu khiến đôi má cô thêm ửng hồng trông lại càng duyên dáng. Theo đề nghị của mọi người, Kính cất tiếng hát. Giọng hát trong trẻo từ bài “Xuân chiến khu” rộn ràng tươi sáng, chuyển sang những câu ca bài chòi “đặc sản” của quê hương Bình Định đằm thắm thiết tha... Cuộc vui đang vào hồi say sưa thì đại đội trưởng đứng dậy, khoát tay ra hiệu phải về. Anh lần lượt xiết chặt tay từng người; Tới tôi, anh nháy mắt, hất mặt về phía Kính: “Nhớ quản lý cho tốt đấy nhé!”. Tôi chỉ biết cười trừ đáp lại… “Vâ...ng ạ!”.
Cuộc vui đến một giờ sáng mới tan, mọi người cần nghỉ ngơi một chút để lấy lại sức khỏe cho công việc ngày mai. Chúng tôi ra vườn cắt ít lá chuối và lá dừa khô trải vào góc nhà bên phải lấy chỗ cho Kính nằm, còn cánh con trai bên góc trái, tôi ở giữa làm “cột mốc phân cách”.
Sáng hôm sau tôi thức giấc đã thấy Kính dậy từ lúc nào. Hai chúng tôi đi dạo quanh khu vườn dừa, vừa đi vừa kể cho nhau nghe chuyện gia đình và cuộc sống của mình. Kính bảo: “Em ở ngay thôn Mỹ Bình, cách đây hơn cây số; Ba đi tập kết ra Bắc, nhà chỉ có hai má con; Em là y tá, đi công tác liên tục nên má lo cho em lắm, má thương em thân gái, chưa đầy hai mươi tuổi đã phải xông pha trận mạc, hòn tên mũi đạn thì “không có mắt” nhưng lo thì lo vậy chứ má chẳng cấm cản em bao giờ cả”. Kính bất giác: “A, đúng rồi, hôm nay mồng một Tết không đánh nhau, em mời các anh trong tiểu đội ta về nhà em ăn Tết, chắc má sẽ vui lắm đó, có được không anh Hai?”.  Nghe giọng nửa như nũng nịu nửa như năn nỉ của Kính làm sao tôi có thể từ chối. Nhưng... anh em trong tiểu đội thì lại nhấm nháy nhau rồi nhất trí cử tôi làm đại diện về nhà Kính ăn Tết, với lý do phải có lực lượng trực sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ cho dân ăn Tết yên vui.
Má đang đứng trước ngõ ngó ra con đường làng, thấy chúng tôi xuất hiện “xông nhà” đúng vào ngày mùng một Tết, má mừng rơi nước mắt. Trong lúc Kính tranh thủ đi thăm bạn bè, tôi phụ má bày cỗ, vừa làm, hai má con vừa thủ thỉ chuyện trò. Ăn cỗ xong, má dẫn tôi sang chơi nhà hàng xóm. Đến nhà nào tôi cũng được đón tiếp niềm nở như người thân trong gia đình. Mọi người hỏi xoắn xuýt chuyện về Thủ đô, về Bác Hồ, về cuộc sống của nhân dân miền Bắc và về gia đình tôi. Ai cũng ước mong sớm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nam - Bắc sum họp một nhà, để được thấy Bác vô thăm miền Nam…
Chiều muộn, chúng tôi về đơn vị, mang theo một gánh nặng nào là bánh tét, bánh in, bánh nổ, nào chè lam, nào dừa rồi nhiều loại cây trái khác… Chia tay má và bà con, lòng tôi cứ bùi ngùi xúc động bởi biết bao giờ mới có dịp gặp lại; Chỉ ngày mai, ngày mốt thôi khi hết lệnh ngừng bắn, nào ai biết trước điều gì...?
Sáng sớm mùng hai Tết Ất Tỵ - 1965, còn chưa hết thời gian thỏa thuận ngừng bắn, phía địch đã có hành động lấn chiếm vùng giải phóng. Bọn chúng cho máy bay trinh sát quần lượn khắp khu vực Chợ Cát, Tam Quan, Đồi Mười và nhiều nơi khác ở phía bắc huyện Hoài Nhơn đặc biệt là ở Chợ Cát, Tấn Thạnh nơi Tiểu đoàn 9 chúng tôi đứng chân. Ba giờ ba mươi phút chiều mồng ba Tết, chiến sự nổ ra ác liệt; Sau hàng loạt rốc két bắn phá dữ dội để dọn đường, bọn giặc ồ ạt đổ quân xuống Chợ Cát; Cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 9 và dân quân du kích địa phương đánh trả quyết liệt. Kính xắn quần đến đầu gối, tóc búi ngược, mặc cho đạn nổ, mặc cho khói bụi mịt mù, mồ hôi nhễ nhại trên mặt, trên lưng, cứ như con thoi chạy hết đoạn hào này lại bò tới đoạn hào khác băng bó vết thương cho thương binh. Cuộc chiến dai dẳng, khốc liệt kéo dài hết ngày nọ sang ngày kia; Tôi và Kính luôn bên nhau trong những tháng ngày ác liệt. Tôi nghiệm thấy ở bên cô gái bề ngoài tưởng chừng yếu đuối mà bên trong ẩn chứa sự gan góc, cứng cỏi đến lạ thường, hình như tôi bình tĩnh, sáng suốt và tự tin hơn khi được gần một cô gái Bình Định “đất võ”.
Sau rất nhiều lần di chuyển với biết bao trận đánh lớn nhỏ suốt từ Bình Định ra Quảng Ngãi rồi lộn trở lại Bình Định. Một buổi sáng tinh mơ, đại đội tôi từ trên núi Hưng Nhượng xuống xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn để lấy gạo tiếp tế thì bất ngờ quân Mỹ đổ quân lùng sục gắt gao. Để bảo toàn lực lượng, cấp trên chỉ thị toàn đại đội rút xuống hầm bí mật. Tôi và Kính ở nhà má Tâm. Căn hầm bí mật chỉ đủ cho một người nhưng chúng tôi có tới hai người, biết làm sao? Tôi nhường Kính, Kính nhường tôi, tiếng đạn nổ mỗi lúc một gần... Má Tâm kêu: “Tụi bây xuống cả đi, tụi nó đến tức thì đó!” rồi má đẩy cả hai đứa xuống hầm, đậy nắp.
Căn hầm chật chội, tôi và Kính phải ngồi ép sát vào nhau mới đủ chỗ ẩn náu. Mùi da thịt con gái xứ dừa khiến tôi có cảm giác lâng lâng khó tả. Qua ánh sáng mờ mờ từ lỗ thông hơi hắt xuống, tôi nhận thấy ánh mắt Kính nhìn tôi rất lạ, hơi thở mỗi lúc một gần. Từ trên mặt đất vọng xuống tiếng bọn Mỹ gầm gừ la ó, tiếng đạn nổ, tiếng khóc thét của trẻ nhỏ… Căng thẳng. Căng thẳng đến tột độ. Kính đã dựa hẳn người vào lòng tôi lúc nào không biết. Thú thực lúc đó tôi thèm được đặt lên đôi môi đang hé mở kia một nụ hôn lắm. Tôi thèm được ôm xiết thân hình kia trong vòng tay mình lắm. Tôi thèm… lắm lắm... Nhưng không! Không thể được! Bởi đời bộ đội nay đây mai đó, biết ngày mai ra sao, tôi không được làm khổ một người con gái đáng yêu như Kính. Bất giác, tôi như người mơ ngủ bừng tỉnh dậy, buông vội tay Kính ra. Kính cũng đã bình tĩnh lại, che miệng khúc khích cười… Ba giờ chiều, má Tâm mở nắp hầm thông báo “địch đã rút quân rồi. Hai đứa tụi bây lên khỏi hầm không thì chết ngạt”. Ra khỏi hầm, tôi nhìn Kính, Kính nhìn tôi vẻ ngượng ngùng...
Sau đó ít lâu, tôi được cử đi học lớp hạ sĩ quan của Trung đoàn. Lúc chia tay, hai chúng tôi nắm chặt tay nhau ước hẹn đến ngày thắng lợi nếu còn sống sẽ trở về tìm nhau và bên nhau mãi mãi. Ba tháng học kết thúc, tôi vẫn về tiểu đoàn cũ nhưng ở Đại đội 91 bộ binh và mất liên lạc với Kính từ đấy.
Thế rồi, sau một trận chiến đấu vô cùng quyết liệt giữa Đại đội 91 của chúng tôi với cả một tiểu đoàn lính Mỹ ở thôn Hy Thế, xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn, tôi bị thương nặng phải về Bệnh xá Trung đoàn điều trị tình cờ gặp cậu bạn ở đại đội 94; Hỏi thăm về Kính thì được biết em đã bị địch phục kích bắt trong chuyến công tác về xã Hoài Hảo. Rụng rời chân tay, tim như bị bóp nghẹt, tôi quỵ xuống…
Do vết thương quá nặng không còn khả năng trở về đơn vị chiến đấu, tôi được chuyển về Đoàn an dưỡng 251 ở Ninh Giang (Hải Dương) sau đó về công tác tại xí nghiệp X10 (nay là Nhà máy Z117 thuộc Tổng cục Công nghiệp - Quốc phòng) đứng chân tại xã Đông Xuân, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Sau giải phóng miền Nam, tôi đã nhiều lần biên thư vào tìm em nhưng thư đi chẳng có hồi âm, hy vọng để rồi vô vọng…
Năm qua tháng lại, tôi đã có một gia đình nhỏ êm ấm song mỗi năm Tết đến xuân về, lòng tôi lại rưng rưng nhớ đêm giao thừa năm ấy, nhớ đến cái Tết ở vùng giáp ranh. Nhớ anh em đồng đội; Tôi nhớ Kính- người con gái xinh đẹp, dũng cảm nhưng rất đỗi dịu dàng của mảnh đất Hoài Nhơn (Bình Định) - người bạn gái đầu đời của tôi.
Thật không thể ngờ, ngày mùng 8 tháng 8 năm 1998, tôi nhận được thư của Kính. Vui mừng khôn xiết, tôi cười mà nước mắt tuôn rơi. Kính ơi! Ba mươi mốt năm rồi… Sao thư đến muộn thế! Nhưng thôi… Biết em còn sống, biết em đã có một gia đình nhỏ hạnh phúc là anh mãn nguyện lắm rồi. Mừng hơn nữa em viết rằng những con đường nát bươm vì bom đạn giặc ngày ấy nay đã được bê tông hóa; Những hàng dừa bị lửa na-pan thiêu đốt năm xưa nay đã xanh trở lại; Những ngôi trường rộn rã tiếng cười trẻ thơ… Máu của đồng đội, của bà con, của anh, của em đổ xuống thật không uổng… Bức thư của em, tôi sẽ nâng niu trân trọng như một kỷ vật thiêng liêng vô giá.
Hôm nay, viết lại câu chuyện này tôi chỉ mong muốn ghi lại ký ức về một thời ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước vĩ đại và tinh thần bất khuất, sự hy sinh anh dũng của những con người chiến đấu, hy sinh vì Độc lập - Tự do của dân tộc; Đây cũng là nén tâm nhang để tri ân đồng đội, cùng bà con cô bác nơi chiến trường xưa: miền đất Bắc Bình Định và Nam Quảng Ngãi. Quãng thời gian ở nơi đó không dài so với một đời người song mãi mãi tôi không bao giờ quên.                                                                                 
                                                                            Nguyễn Hoàng Đạo
 
NHỮNG DÒNG THƯ VIẾT VỘI
Biết bác Ngô Bích Sen từ nhiều năm nay nhưng tôi chỉ bằng tuổi con cháu bác nên cũng chưa hiểu nhiều về bác. Năm ngoái, trong buổi sáng đầu đông se lạnh, tôi tìm bác để chuyển một văn bản. Rất may, đó là dịp tốt để tôi hiểu thêm về bác - về một thế hệ đã sống, chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc.
          Bên chén trà nóng đang bốc khói, câu chuyện giữa hai bác cháu lại xoay quanh chuyện về bộ đội Trường Sơn, chuyện hậu phương thời chiến, chuyện một thời và mãi mãi. Những câu chuyện mà một người sinh ra, lớn lên trong hòa bình như tôi ít được nghe.
          Câu hát: “Đường Trường Sơn thuộc như bàn tay",  “Chỉ nghe có tiếng hát mà đem lòng yêu thương” có lúc tôi từng hát nhưng chưa hiểu ngọn ngành thì giờ đây bác phân tích thật lý thú.
          Khi nhắc lại những câu chuyện về đồng đội, về số phận của con người trong hoàn cảnh khốc liệt chiến tranh, tôi nhận thấy đôi mắt của người lính đã gần 70 tuổi đời nhòe đi.
Suốt gần một buổi sáng, tôi được nghe bác đọc, bác kể về hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Thư gửi lại trước ngày ra trận” do bác viết để lại cho người vợ trẻ và đứa con thơ chưa đầy một tuổi trước ngày ra trận. Một tuần sau tôi trở lại gặp bác để xin chụp lại bức thư - bài thơ ấy để trích đọc trong bài giảng cho lớp Bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng của mình.
Ngô Bích Sen sinh ra và lớn lên từ một miền quê đất bạc màu nhưng giàu truyền thống cách mạng-xã Đôgn Xuân. Nhập ngũ năm 1972, bác Sen cùng đơn vị được đưa đến Tam Đảo-Vĩnh Phúc huấn luyện gấp. Lá thư bác Ngô Bích Sen viết gửi về cho người vợ thân yêu ở quê nhà đề ngày 29/12/1972 (chiều 29 Tết Nhâm Tý). Đó là cái Tết đầu tiên người chiến sĩ trẻ xa nhà, xa người vợ trẻ, xa đứa con thơ... Đó cũng là thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ đang vào giai đoạn ác liệt. Càng đọc, tôi càng cảm nhận được hơi thở của năm tháng lịch sử ấy và thêm trân trọng những đóng góp, hy sinh của thế hệ cha anh, thấm thía hơn giá trị của cuộc sống hòa bình hôm nay.
“Cũng mùa xuân này năm ngoái, anh và em cùng toàn thể gia đình ấm cúng quây quần bên mâm cỗ Tết, kỷ niệm êm đẹp của đôi vợ chồng mới cưới bên nhau đón một năm mới. Thế nhưng mùa xuân năm nay anh đang làm nhiệm vụ ở một nơi xa. Anh nhớ quê, nhớ nhà, nhớ em và con da diết. Nhưng em ơi! Ở hai nơi xa cách mình cùng vui lên nhé.”.
Một năm sau đó, tháng 11/1973, kết thúc huấn luyện tại Vĩnh Phúc, bác Sen  được đơn vị cho tranh thủ về thăm nhà một đêm. Với tất cả nỗi niềm của người chồng, người cha sớm mai sẽ cùng đoàn quân vào Nam chiến đấu và có thể mãi mãi không trở về, bên ngọn đèn dầu chiến sĩ Ngô Bích Sen dốc tâm trạng vào trang vở học trò để viết: “Thư gửi lại trước ngày ra trận”. Đã có nhà báo gọi bức thư này là Bản di chúc bằng thơ. Bức thư đặc biệt được dán bên ngoài ba lượt phong bì. Bì ngoài cùng chỉ có một dòng chữ rắn rỏi, dứt khoát: Bảy ngày sau mới được mở. Bác Sen nói:
- Được về nhà có một đêm, cứ để mọi chuyện bình thường để gia đình không bị bất ngờ, xáo trộn tâm lý. Bảy ngày sau thì “việc đã rồi”. Những giọt nước mắt lăn rơi rồi cũng khô thôi.
  Thì ra bác đã tính toán rất kỹ. Hành quân bằng cơ giới sau 7 ngày sẽ vào đến chiến trường miền Nam. Trong khí thế cách mạng sục sôi của cả nước, tâm lý của thanh niên lên đường lúc đó coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Nghe đến đây, tôi thầm nghĩ ở cái tuổi 22 như bác lúc ấy thì nhiều thanh niên bây giờ chỉ lo ăn, học, vui chơi. Vậy mà tâm thế của người lính này đã lớn hơn cái tuổi đôi mươi rất nhiều. Đâu chỉ là trách nhiệm với gia đình riêng mà trên tất cả là tiếng gọi thiêng liêng khi đất nước có giặc giày xéo, khi nước nhà còn bị chia cắt. Người chiến sỹ tự nguyện và khao khát ra mặt trận chiến đấu cũng vì chính những người họ yêu thương nhất, vì Tổ quốc mãi mãi muôn đời.
 Ngày mai vào chiến trường, nơi bom rơi đạn nổ ác liệt, thắng, thua hay hy sinh là lẽ thường tình. Nghĩ vậy chiến sĩ Ngô Bích Sen viết:“Tôi vào Nam tuổi đời hai hai/ Vợ hai mươi, con một tuổi đời/ Nếu chẳng may qủa bom viên đạn/ Giết tôi lúc tuổi ngoài hai mươi”
Yêu thương đứa con thơ và không muốn người vợ mới hai mươi phải héo hắt, chôn giấu tuổi xuân khi mình không trở về, dù thực tế có phũ phàng, khó khăn và đau đớn Ngô Bích Sen vẫn chủ động dặn lại vợ: “Hãy nhớ lời anh dặn em ơi/ Nuôi con mình tới ngày vào lớp một/ Ai thương yêu thì em bước tiếp/ Thế là em trọn với anh rồi”.
Với con, người cha ân cần, chan chứa yêu thương:“Nếu kẻ thù giết hại đời cha/ Con muốn biết hình hài của bố/ Con hỏi ông bà, mẹ kể cho thì rõ/ Tấm ảnh này cha gửi lại tặng con/ Con sẽ dần lớn khôn/ Cha rất vui ngày con vào lớp một/ Mẹ vắng nhà con ơi đừng hốt/ Mẹ sang nhà bên con ở với ông bà”. Bác Sen nhìn tôi, nói: Bây giờ đọc lại mấy câu thơ này vẫn rơi nước mắt, thế mà ngày ấy sao mình cứng rắn thế!
Tôi được xem bức ảnh đen trắng chụp 46 năm trước. Tôi ngỡ ngàng bởi gương mặt vợ chồng quá trẻ cùng bế đứa con trai mặt còn búng sữa, chụm đầu vào nhau. Thật hạnh phúc.  Đây là bức ảnh gia đình duy nhất lưu giữ được. Thời chiến tranh, khó khăn thiếu thốn, có được một tấm ảnh đã là quý rồi, lấy đâu mà sao ra được thêm tấm nữa. Đã định cho tấm ảnh vào ba lô hành quân vào Nam nhưng lại nghĩ nếu mình hy sinh thì lớn lên con không biết mặt bố, chiến sĩ Ngô Bích Sen đành để lại bức ảnh ở nhà. Thế mới hiểu rằng ai cũng có thanh xuân, có một thời để yêu, để nhớ thương cháy bỏng. Đã có biết bao gia đình bố mẹ phải lìa xa con cái, vợ phải lìa xa chồng tạm thời và mãi mãi để những mái nhà Việt được quây quần, hạnh phúc hôm nay. Nhớ nhé, đừng quên!
Vừa suy nghĩ viết những dòng để lại, vừa ngắm nhìn vợ con trong đêm khuya dưới ngọn đèn dầu: “Trăng lặn rồi đêm đã rất khuya/ Mình còn bên nhau vài giờ nữa/ Má vợ hồng môi con thơm mùi sữa/ Gia tài tôi gửi lại. Trước ngày xa”. “Gia tài tôi gửi lại trước ngày xa”. Vâng! thật xúc động, thật thấm thía và thật nhân văn. Gia tài của người lính khi bước vào trận chiến sinh tử là những người thân, quê hương, Tổ quốc và họ sẵn sàng hy sinh vì những điều bình dị và thiêng liêng ấy.
Đọc khổ cuối cùng của bài thơ tôi thấy một lời nhắn nhẹ nhàng, sâu sắc và không tránh khỏi sự vấn vương: “Trải lòng mình đôi lời dặn vợ con/ Phòng ngày đi phải đi mãi mãi/ Mai ra trận, đôi dòng để lại/ Em ơi, con nhé đừng buồn”.
Chuyến đi của người lính trẻ vất vả, hiểm nguy nhưng suôn sẻ. Đóng quân trong một cánh rừng thuộc đất phương Nam, đêm đầu tiên sau khi ổn định chỗ ở, anh viết thư về: “Văn ơi. Đồng ơi. Em và con tha lỗi cho anh. Lá thư đầu tiên gửi về cho em từ một vùng đất trực tiếp với khói lửa chiến tranh. Sự khốc liệt, những khó khăn thiếu thốn hiện hữu anh và đồng đội cũng đã dần quen. Chỉ nhớ em, nhớ con. Thương em, thương con vô cùng. Chia tay vợ con đi chiến trường mà cứ như vụng trộm. Chiến tranh em ạ. Có những thứ nó vượt ngoài mình. Chính lòng tin trong em ở anh rất lớn, anh mới chia tay em và con như thế. Và anh đã vượt được chính mình”. Ra mặt trận mà người lính nhẹ nhàng, thanh thản, dẫu biết rằng đằng sau mình là cả một gánh nặng đè lên đôi vai gầy yếu của người vợ trẻ với con thơ, bố mẹ già, các em nhỏ dại.
Những ngày tháng ở mặt trận Quảng Nam giữa bốn bề là rừng già sâu thẳm, người lính đã trải qua điều kiện sống vô cùng thiếu thốn, gian khổ. Trong bức thư gửi về cho vợ khi ông đang nằm điều trị ở bệnh xá Trung đoàn 574: “Có lúc nào em phải chịu trong cơn khát cực độ chưa? Thì giờ đây anh thèm một tàu lá su hào, một bẹ cải bắp đến vậy, em bảo giữa rừng xanh tự nhiên mênh mông này tìm đâu ra những thứ ấy. Đấy là chưa kể những chuyến đi gùi gạo ở đồng bằng mất hàng mười, mười lăm ngày một chuyến. Có khi về đến nhà là hết gạo, hết rau. Đêm ngủ thì muỗi Trường Sơn rất thèm máu các anh bộ đội miền Bắc mới vào. Nếu không cảnh giác với chúng thì chóng sốt rét lắm”.
Người lính trẻ đâu phải kể khổ. Anh muốn chia sẻ với người thân yêu để hiểu thêm cuộc sống chiến trường. Các đồng đội của anh đều chung suy nghĩ ấy. Với anh lúc ấy người chia sẻ, tiếp thêm động lực cho anh không ai khác, chính là vợ - hậu phương vững chắc, dù ở phương trời nào anh vẫn luôn hướng tới. Và tình cảm với con cũng dạt dào, tha thiết: “Ánh Đồng con của cha! Cha yêu con lắm! Cha cứ nghĩ đến ngày con lớn, mẹ may cho con áo hoa và con bước vào năm học đầu tiên. Ngày ấy cha thắng trận trở về. Cha ôm con, hôn con thật nhiều thì thật là sung sướng hạnh phúc biết bao!”.
Trong lá thư khác gửi cho vợ, ghi: “Quảng Nam, ngày 20/5/1974”, giữa rừng Trường Sơn anh bộ đội bày tỏ nỗi nhớ thương cảnh bình dị nơi quê nhà. Đó cũng là tâm trạng chung của những đồng đội khác: “Trời sắp mưa càng làm cho khu rừng Trường Sơn thêm u ám, quang cảnh lúc này chẳng giống như quê ta những trận mưa rào tháng ba đâu em ạ! Bởi xung quanh anh chỉ là rừng già và những tiếng ve sầu rả rich. Đã lâu rồi bọn anh khao khát nhìn đồng lúa vào những chiều hè trời nổi giông. Chẳng có chiếc sân gạch để nhìn những cái bong bóng của giọt mưa ngâu tháng bảy”. Lá thư này anh viết thật lãng mạn.
Tìm hiểu, tôi mới biết thủa nhỏ bác Ngô Bích Sen từng là một học sinh rất yêu thích văn học và hay làm thơ. Trong thư bác kể cho vợ nghe chuyện chiến trường với tinh thần lạc quan: “... Đường hành quân vào mặt trận cũng vui lắm em à. Con trai, con gái đông như  kiến cỏ, như sông chảy. Bọn anh vẫn thầm phục những cô gái miền Bắc vào đây công tác ba, bốn năm trời song cuộc đời vẫn lạc quan ca hát. Anh đã gặp những người bạn thân cùng học năm xưa. Họ vừa chiến đấu thắng lợi ở mặt trận, lại vừa ở hậu phương mới vào, chiến trường nhộn nhịp, vui vẻ khí thế lắm, chẳng như người ở nhà nghĩ đâu em ạ”. Đọc đến đây tôi lắng lại và nhớ bốn câu thơ của nhà thơ Trần Mạnh Hảo trong bài thơ “Đất nước hình tia chớp”: “ Thế hệ chúng tôi đi như gió thổi/ Quân phục xanh đồng sắc với chân trời/ Chưa kịp yêu một người con gái/  Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai”.
Lá thư nào cũng vậy, phần cuối thư anh luôn dành sự quan tâm đến bố mẹ, họ hàng hai bên và bày tỏ lòng mong ngóng thư nhà: “Bây giờ em cho anh biết rõ tình hình gia đình có gì thay đổi không? Anh em, họ hàng ra sao, cho anh biết ngay. Anh đã viết về cho gia đình năm lá, bố mẹ bên ấy hai lá và nhà mình ba lá. Già Đường một, ông bà Thạc một, ai đã nhận được cho anh biết tin. Qua em cho anh kính chúc sức khỏe bố mẹ sống lâu, các em ngoan học giỏi”.
Tôi hỏi về thời gian viết thư và công việc trong chiến trường của bác Sen. Bác nói:
-  Dạo ấy vào khoảng tháng 7 âm lịch năm 1974, ở ngoài Bắc quê mình lúa mùa bị hạn nặng. Bác gái viết thư vào, mong cho miền Nam sớm giải phóng để anh về tát nước cùng em. Bác lại viết thư về: “ Chiến dịch còn dài. Trung đoàn còn đi xa/  Nòng pháo xe tăng còn khạc lửa/ Anh đến nơi tận cùng lời hứa/ Giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà/ Rồi mai ngày đất nước khải hoàn ca/ Anh về bên em chăm lo cày cấy/ Lại cùng em nghe tiếng gà thức dậy/ Tát nước đêm trăng em chẳng một mình”. Những câu thơ vẽ ra mơ ước về cảnh sinh hoạt, sản xuất nơi quê nhà bình dị khi đất nước hòa bình và nó cũng cho tôi biết bác là lính xe tăng.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước cũng như nhiều anh bộ đội mong được về đoàn tụ với gia đình, tháng 6/1975, Ngô Bích Sen đóng quân ở Chu Lai, Quảng Nam -  nơi có biển xanh, ngày đêm sóng vỗ ì ầm. Hòa với niềm vui chung của Tổ quốc, người lính trẻ tự hào vì mình đã sống, chiến đấu đúng lý tưởng: “Niềm vui quá lớn mà lòng mình làm sao tả xiết. Anh tự trách mình còn dốt tiếng mẹ đẻ để không viết về cho em được những mẩu chuyện chiến tranh và hòa bình. Chuyện này em cần biết quá chứ vì em là vợ của một người lính - một người lính chiến thắng”
Có lẽ tôi là người may mắn khi hôm nay được đọc những bức thư của anh lính trẻ Ngô Bích Sen từ mặt trận gửi về quê nhà, nhất là những lá thư gửi riêng về cho người vợ thân yêu. Mỗi lá thư là một hoàn cảnh, thời gian, không gian, địa danh khác nhau ngoài mặt trận, nhưng chung nhất một điều tôi nhận thấy là người ở tiền phương giấu đi những thiếu thốn, gian khổ nơi chiến trường để lạc quan động viên người ở hậu phương. Có phải đó là nghị lực, khí phách trong mỗi con người Việt Nam đã làm nên chiến thắng?
Một điều chung nữa, cuối lá thư nào cũng vậy, anh đều ghi thông cảm do thời gian rất vội hẹn thư sau viết nhiều hơn. Dễ hiểu thôi! Cuộc sống của người lính nơi chiến trường ác liệt luôn bề bộn, vội vã từng giây, từng phút.
Cám ơn bác gái! Suốt mấy chục năm qua bác còn giữ lại đủ cả những lá thư của người chồng thương yêu vô cùng. Có phải bác đã từng nghĩ đến điều đau đớn nhất có thể  xảy ra như trong “ Bản di chúc bằng thơ” kia?  Khi ấy, những lá thư này và tấm ảnh gia đình sẽ là di vật cuối cùng của người chồng, người cha hết mực thương yêu để lại trên cõi đời này!
Những bức thư đến hôm nay là những trang giấy mỏng manh đã cũ kỹ, ố vàng, nguyên vẹn nét chữ rắn rỏi được hai bác giữ gìn như những kỷ vật vô giá. Từ thời là anh lính hai mươi hai tuổi vượt lên chính mình trong đêm cuối bên vợ con trước ngày ra trận đến hôm nay tình cảm của ông với gia đình, quê hương, đất nước vẫn nguyên vẹn. Giống như những bức thư này! Và tôi được biết một trong những lá thư thời chiến của bác Ngô Bích Sen - “Bản di chúc bằng thơ” hiện giờ đã được Viện Bảo tàng lịch sử Quân sự Việt Nam giữ làm bảo vật!
“Những dòng thư viết vội”! Những kỷ vật thiêng liêng! Những nỗi đau giằng xé, sự hy sinh mất mát vì chiến tranh và cả giọt nước mắt hạnh phúc của con người Việt Nam khi sum họp đều đã đi đến tận cùng của nó. Có trang giấy nào diễn tả hết được đây? Một thời và mãi mãi cho đất nước muôn đời! Tự hào, biết ơn và trân trọng!/.                                                             
                                                                   Đỗ Thị Thu Nga
                                                  Ban Tuyên giáo Huyện uỷ
 
CÒN BƯỚC ĐƯỢC THÌ CÒN TÌM ĐỒNG ĐỘI
(Viết về Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh,  xã Đức Hòa)
Cùng Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh - nguyên Phó Tư lệnh chính trị Quân đoàn 4 - thăm đồng đội cũ và lo làm nhà tình nghĩa cho đồng đội, chúng tôi gặp Đại tá Bế Ích Quân - nguyên Sư trưởng Sư đoàn 316, nguyên chiến sĩ Sư đoàn 7  tại sân bay Nội Bài. Tại đây, Thiếu tướng Doanh ôm Đại tá Quân thật xúc động. Không rõ họ nói gì với nhau, nhưng tôi dám chắc đó là những lời thắm tình đồng đội của hai cựu chiến binh năm xưa đưa nhau từ cõi chết trở về
SỐNG LẠI NHỜ TÌNH ĐỒNG ĐỘI
Đầu năm 1963, sau ba tháng huấn luyện tân binh ở Trung Giã, Đa Phúc, (nay là Sóc Sơn - Hà Nội), binh nhất Nguyễn Ngọc Doanh thuộc diện “thấp bé nhẹ cân” nhưng lập thành tích bắn giỏi nên được cử đi học lớp hạ sĩ quan. Học xong, hạ sĩ Nguyễn Ngọc Doanh làm tiểu đội trưởng một thời gian ngắn thì được cấp trên tin tưởng phân công đi huấn luyện mẫu cho trung đoàn và được đề bạt lên chức Trung đội trưởng.
Ngày 6/1/1966, Nguyễn Ngọc Doanh cùng đồng đội hành quân vượt Trường Sơn đến mặt trận miền Đông Nam bộ, với cấp chuẩn úy, trung đội trưởng. Không thể nói hết sự gian nan, nguy hiểm trong 4 tháng 20 ngày xẻ dọc Trường Sơn, khoác ba lô vượt rừng, lội suối, leo núi, băng qua bom pháo giặc để đến những cánh rừng miền Đông Nam Bộ đúng ngày kỷ niệm sinh nhật Bác (19-5-1966). Chỉ biết rằng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 141 của anh hơn 500 quân, khi tới nơi chỉ còn lại 120 cán bộ, chiến sĩ. Có người chết vì bom đạn giặc, có người chết vì đói, song chết nhiều nhất là mắc bệnh sốt rét. Từ sốt xuất huyết, bộ đội ta bị sốt rét ác tính, biến chứng phù phổi cấp, rồi kiệt sức không sống nổi.
          Chuẩn úy Nguyễn Ngọc Doanh suýt gục ngã trên đường Trường Sơn. Ngày ấy, do ăn uống kham khổ và vệ sinh trên đường không bảo đảm nên anh bị bệnh kiết lỵ, chân bị nấm, đi lại rất khó chịu. Đã vậy anh lại bị sốt rét ác tính, tóc rụng, da vàng, sức yếu, đi không vững. Hai tay chống hai cây gậy, anh cố sức bước theo anh em suốt chặng đường. Lương thực, thuốc men đều cạn. Một viên ký ninh phải hòa loãng cho 30 người bị sốt rét uống. Đơn vị đói quá, đào củ mài, hái rau rừng, rau tàu bay, cây càng cua, lá lộc vừng… ăn thay cơm. Có lần đào nhầm củ dáy, mọi người ăn vào ngứa như móc họng.
          Cả đơn vị vừa hành quân chưa kịp lại sức thì ngày 10/8/1966, nhận nhiệm vụ đánh trận đầu tiên tại đường 10 - Vĩnh Thiện (nay là huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước). Trung đội 6, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 141, Công trường 7 (sau này là Sư đoàn 7) của Nguyễn Ngọc Doanh rơi trúng vào ổ phục kích của địch. Trận này, nhiều đồng đội bị thương vong, còn Nguyễn Ngọc Doanh bị đạn AR15 của địch bắn vỡ quai hàm, gãy hết răng, đạn xuyên đứt cơ đùi, máu chảy nhiều không cầm máu được. Đồng đội phải yểm trợ cho lực lượng tải thương khiêng anh vượt rừng về phía sau. Trên đường về cứ, lại bị địch đánh chặn nên Nguyễn Ngọc Doanh bị suy kiệt, chết lâm sàng vì mất nhiều máu quá. Đồng đội đau buồn tưởng anh đã hy sinh.
      Đến khu nghĩa trang dã chiến của đơn vị, anh em đặt tạm anh xuống huyệt rồi lấy võng đắp lên, ai cũng quá mệt không còn sức để làm thủ tục mai táng. Đơn vị phân công chiến sĩ Vũ Văn Phẫu (quê Thanh Miện, Hải Dương) ở lại gác, quyết không để kỳ đà và thú rừng moi ruột thi hài đồng đội.
          Sáng sớm hôm sau, đơn vị cử tiểu đội phó Bế Ích Quân (người dân tộc Tày quê Cao Bằng) và Đinh Văn Lĩnh (quê Phú Thọ), Tống Ngọc Sơn (quê Hải Dương) lo an táng Nguyễn Ngọc Doanh. Trong khi các đồng đội xúc đất lấp lên thi hài Nguyễn Ngọc Doanh thì Bế Ích Quân chợt nghĩ đến việc trung đội trưởng của mình chiến đấu bị thương có thể không còn dép. “Nếu không còn dép thì để anh đi đôi dép của mình, xuống âm phủ còn có cái mà đi”. Nghĩ vậy, Bế Ích Quân nhảy xuống hố, moi đất xem bàn chân Nguyễn Ngọc Doanh. Bất giác anh hét lên: "Dừng lại, chân thủ trưởng còn ấm".
Thế là anh em vội bới đất đưa Nguyễn Ngọc Doanh lên khỏi hố chôn, gấp rút đưa về cấp cứu tại đội phẫu đơn vị ở rừng Mã Đà, tỉnh Bình Phước. Gần 6 tháng sau anh ra viện, tiếp tục cuộc chiến đấu.
Nhờ nghĩa tình đồng đội sâu nặng - quan tâm đến đôi dép cho đồng đội lúc hy sinh - mà Nguyễn Ngọc Doanh được cứu sống, từ cõi chết trở về.
BẦM DẬP TRONG CHIẾN ĐẤU VẪN DŨNG CẢM
Sau trận đánh ác liệt “thập tử nhất sinh” ấy, đồng đội nghĩ Trung đội  trưởng Nguyễn Ngọc Doanh mất sức chiến đấu, phải trở về hậu phương. Nhưng không phải như vậy. Khi lành các vết thương, sức khỏe tạm  bình phục, cấp trên ướm hỏi anh có tiếp tục chiến đấu được không? Anh vui vẻ trả lời, đậm chất hài hước: "Tôi còn bắn súng tốt". Thế là cấp trên phân công anh làm Chính trị viên phó đại đội, chăm lo đời sống tinh thần cho chiến sĩ. Đầu năm 1967, anh nhận cương vị Chính trị viên Đại đội 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 141. Lúc này, Sư đoàn 7 chuẩn bị mở chiến dịch lớn trên đường 13. Trung đoàn của anh do đồng chí Lê Nam Phong làm trung đoàn trưởng có nhiệm vụ đánh vào phía đông đường 13, còn phía tây là Trung đoàn 165 đảm nhiệm. Nguyễn Ngọc Doanh biết trung đoàn trưởng đã từng là đại đội trưởng giỏi đánh trận Điện Biên năm 1954 nên anh động viên đại đội vững tin và quyết tâm tiến công đồn Tân Hưng (huyện Bình Long ngày nay). Đêm 11/7/1967 đơn vị tập kích đánh đồn. Khu vực này là khu đồn điền cao su rộng mênh mông, cây cao su dày đặc, ban đêm tối om om, rất dễ lạc nhau vì mất phương hướng. Do ăn uống thiếu chất, nằm lâu trong rừng nên phần đông mắt anh em bị bệnh quáng gà, nhìn ban đêm không rõ. Anh sáng kiến cho anh em lấy lá mục bôi vào lưng nhau. Ban đêm lá mục có chất lân tinh phát sáng dễ nhận ra nhau khi hành tiến. Đồng thời dùng dây rừng buộc vào cán xẻng để bám sát nhau. Đúng 6 giờ sang, đơn vị phát lệnh nổ súng. Khi mở hàng rào để bộ binh xuất phát xung phong thì chẳng may dây điểm hỏa bộc phá bị đứt phải dung lựu đạn kích nổ… Trận này công tác trinh sát, nắm địch chưa tốt, lực lượng địch lại mạnh nên chúng dùng các hỏa lực và bom pháo đánh trúng đội hình đại đội. Toàn đại đội bị thương vong nặng nề, 60 người chỉ còn 9 người sống trở về. Cán bộ đại đội, trung đội hy sinh và bị thương gần hết. Chính trị viên Nguyễn Ngọc Doanh bị mảnh bom chém vào bắp chân trái, mảnh găm vào gót làm đứt 1/3 gân A-sin, khiến chân anh không co duỗi được. Rất may trong lúc anh nằm bên công sự thì đồng chí Thẩm - chính trị viên tiểu đoàn phát hiện được. Anh lệnh cho Đại đội cối 82 ly quay lại chiến trường cõng Nguyễn Ngọc Doanh ra. Anh kể: “Tôi nhớ hôm ấy anh Duyệt người Hải Dương cõng tôi vượt rừng vất vả lắm”.
Về tới bệnh viện dã chiến K30 trên đất Lộc Ninh, các y bác sĩ quân y khẩn trương rạch thịt để gắp mảnh bom đạn và xương vụn ra rồi khâu vá vết thương… Sau 5 tháng 10 ngày điều trị, Nguyễn Ngọc Doanh lò cò tập đi một cách kiên trì. Anh nghĩ: Mình phải tập đi, lúc này không thể rời bỏ chiến trường, không thể xa rời đồng đội chiến đấu! Cuối năm 1967, anh Doanh bước đi còn khó khăn nên cấp trên đưa anh về làm trợ lý cán bộ trung đoàn. Đến năm 1968 thì anh làm Phó Bí thư Đảng ủy 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần. Nhưng cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968 rất quyết liệt, bộ đội thương vong nhiều. Người cán bộ từng trải chiến đấu, đầy kinh nghiệm xương máu như anh không thể ở cơ quan. Anh nóng lòng xin cấp trên cho đi làm nhiệm vụ tải thương, khắc phục hậu quả chiến trường. Được cấp trên chấp thuận, có lần anh đang tổ chức khiêng thương binh thì chân đau quá không đi được, anh phải bò, lết gần 4 km đường rừng mới về được đơn vị. Thấy anh quyết tâm cao, cấp trên gặp gỡ rồi giao nhiệm vụ anh làm chính trị viên phó tiểu đoàn trong khi đồng chí chính trị viên tiểu đoàn đi báo cáo thành tích. Thế là anh thay luôn vị trí chính trị viên.
Tháng 2/1969, Nguyễn Ngọc Doanh là chính trị viên tiểu đoàn. Tiểu đoàn 1 của anh nhận lệnh đánh tiểu đoàn lính dù Mỹ vừa đổ bộ xuống Bến Tranh. Trận này chúng cứu bọn lính dù nên thả nhiều bom Napan khiến anh em ta bị thương rất nhiều. Các tài liệu sổ sách ghi chép bị cháy hết. Trên đường cơ động về, bị địch đánh chặn đường, chính trị viên Nguyễn Ngọc Doanh lại bị mảnh bom văng vào đầu, chấn thương sọ não. Anh bị ngất, đồng đội khiêng về cấp cứu, mổ sống gắp mảnh bom ra. Anh đã quá quen với mảnh bom đạn găm vào người nên chỉ hơn 2 tháng sau, anh lại ra viện trở về đơn vị. Đúng lúc ấy đơn vị của anh tham gia đánh trận Tà Tê (huyện Bù Đăng). Lô cốt này được xây dựng kiên cố. Trước khi xây lô cốt, giặc Mỹ dùng máy bay B52 rải thảm rồi dùng máy ủi san bằng tất cả. Bởi vậy Trung đoàn 141 đánh ba lần mới đập tan được lô cốt này. Trong trận đánh đó, Nguyễn Ngọc Doanh lại bị thương vào đầu gối khiến cơ chân ít vận động, bị teo đi.
Mặc dù trên cơ thể có nhiều thương tích, song vì có nhiều thành tích trong chiến đấu và có năng lực lãnh đạo chỉ huy nên tháng 7/1969 cấp trên vẫn đề bạt Nguyễn Ngọc Doanh làm phó chính ủy Trung đoàn 141. Đến tháng 7/1971, anh lại nhận nhiệm vụ làm quyền Trung đoàn trưởng Trung đoàn 141.  Một năm sau anh lại đảm nhiệm chức quyền chính ủy trung đoàn. Năm 1974, Nguyễn Ngọc Doanh được đi học chính trị sau đó làm Chính ủy Trung đoàn 141.
Lúc này tình hình chiến trường Nam Bộ sôi sục các hoạt động chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược, giải phóng miền Nam. Trung đoàn 141 của Nguyễn Ngọc Doanh được giao nhiệm vụ đặc biệt: Giải phóng căn cứ Đồng Xoài (Bình Phước) làm bàn đạp tiến đánh Phước Long. Tháng 1/1975, Sư đoàn 7 cùng các lực lượng đã đánh và giải phóng Phước Long tạo ra đòn choáng váng về quân sự, chính trị và tinh thần của giặc.  Bị mất Phước Long, kẻ thù bị thất thủ về quân sự và vị thế chính trị, ngoại giao, gây hoang mang dao động, làm chấn động hệ thống phòng thủ Nam Tây Nguyên và các tỉnh Bắc Sài Gòn, mở màn cho thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, mùa xuân 1975.
Sau chiến thắng này, từ nam Tây Nguyên, Trung đoàn 141 do Nguyễn Ngọc Doanh làm chính ủy lại tiến về đồng bằng tham gia mở "cánh cửa thép" Xuân Lộc cho đại quân ta tiến thẳng vào giải phóng Sài Gòn.
Hơn 20 năm, từ năm 1975 đến 1997, đồng chí Nguyễn Ngọc Doanh trải qua nhiều cương vị: Chuyên gia giúp bạn Campuchia, Phó Tư lệnh Chính trị Mặt trận 479, Phó Tư lệnh Chính trị Quân đoàn 4, Phó Hiệu trưởng Chính trị Trường sĩ quan Lục quân 2.
 
 MIỆT MÀI TÌM ĐỒNG ĐỘI
 
Năm vừa qua, cùng Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh trở về thăm quê - xã Đức Hòa, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội - tôi được thấy tình cảm thân thương của người dân quê hương dành cho ông. Hơn 50 năm lên đường đánh giặc mà nhiều người dân nơi đây vẫn nhớ về ông - người thanh niên mảnh mai, nhỏ nhắn làm kế toán trưởng của hợp tác xã nông nghiệp năm nào. Ít người biết rằng người thanh niên nhu mì, hiền hậu dễ mến ấy lại nhiều phen làm quân thù khiếp vía. Từ chiến sĩ binh nhì, bằng tài năng và nỗ lực phấn đấu không ngừng ông đã trở thành vị tướng trận mạc tài ba khi mới 46 tuổi.
          Về thăm quê, 80 tuổi, bước chân ông đi không còn linh hoạt như xưa. Không hẳn vì tuổi tác mà chính là vì đạn bom kẻ thù đã nhiều lần xuyên phá cơ bắp, gân cốt của ông. Ông mang trên mình quá nhiều thương tật, chỉ thiếu 3% nữa là ông đủ tiêu chuẩn thương binh nặng bậc cao nhất, có người phục vụ suốt đời. Ấy vậy mà từ khi nghỉ hưu, ông không nghỉ công việc, vẫn liên tục những chuyến đi…
Những năm gần đây, vẫn chiếc áo quân phục bạc màu, ông lặn lội về lại chiến trường xưa tìm hài cốt đồng đội. Vết thương tái phát và bệnh tật tuổi già đôi lúc khiến ông mệt mỏi, phải nằm trong bệnh viện nhưng cứ nghĩ đến các đồng đội đang nằm nơi hoang vắng, rừng sâu, không rõ danh tính là lòng ông quặn lại, thôi thúc ông lên đường.
Về chiến trường xưa, với tấm bản đồ tác chiến năm xưa, tìm những dấu tích, ông xác định nơi chôn cất các đồng đội, rồi đào, tìm, rồi hy vọng và không ít lần thất vọng. Phải huy động sự phát hiện của các cựu chiến binh và toàn dân mới có thể tìm được. Chiến tranh lùi xa hơn 40 năm, có liệt sĩ đã nằm xuống hơn 50 năm, các dấu tích bị thời gian, mưa nắng xóa lấp. Bởi vậy, tháng 8/2012, ông lập Trung tâm thông tin tìm kiếm hài cốt liệt sĩ Việt Nam (thuộc Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam) do ông làm giám đốc. Từ khi thành lập, ông cùng đồng đội tìm kiếm được hơn 250 hài cốt liệt sĩ. Có trên 50 bộ hài cốt liệt sĩ được ông tổ chức đưa về quê nhà các anh. Biết bao lần ông cùng đồng đội vượt nắng mưa vào rừng tìm kiếm, phải ăn uống kham khổ như những ngày đánh giặc. Nước mắt ông lại ứa ra khi mỏi mòn không tìm được đồng đội và những khi xúc động tìm thấy hài cốt và di vật của các anh.
Ông chịu lắng nghe, tìm kiếm trong dân, ai có khả năng gì mà tìm được hài cốt liệt sĩ là ông tận tình nhờ cậy. Tôi được biết: Ngày 28/4/2013, Trung tâm thông tin tìm kiếm hài cốt liệt sĩ phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 và bà Vũ Thị Hòa có khả năng đặc biệt đã phát hiện ra hố chon 164 liệt sĩ Trung đoàn 165, Sư đoàn 7 hy sinh tháng 8/1967 tại cứ điểm biệt kích Tống Lê Chân (huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh). Ông huy động mọi nguồn lực khai quật, đưa các anh về nghĩa trang liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng do những căn cứ hành chính cứng nhắc nên đến nay vẫn chưa được thừa nhận. Mỗi khi nói về chuyện này ông đều rưng rưng nước mắt. Ông từng nghẹn ngào nói với lãnh đạo Bộ Quốc phòng: “Tôi bảo đảm những bộ hài cốt ấy của đơn vị tôi là đúng. Nếu các anh phát hiện sai sót gì thì cứ bắn tôi đi !”
Hôm nay, ông vẫn còn lưu giữ hơn 1.000 danh sách và hồ sơ mộ chí của các liệt sĩ nằm ở chiến trường xưa và bên nước bạn Lào, Campuchia nhưng chưa tìm được.
Năm ngoái tôi may mắn cùng ông ngược lên Cao Bằng thăm các gia đình liệt sĩ, thương binh của Sư đoàn 7 và thăm gia đình Đại tá, CCB Bế Ích Quân - người lo ông sang “thế giới bên kia” không có dép để đi! Ông huy động kinh phí xây tặng nhà tình nghĩa cho một thương binh nghèo dân tộc Tày ở biên giới Cao Bằng và hàng chục căn nhà khác cho các đồng đội còn gặp khó khăn tại nhiều địa phương.
Nghĩa tình của ông với các đồng đội thật sâu nặng. Ông đúng là vị tướng phát huy bản chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ. Tôi cứ nhớ mãi câu nói của ông với mọi người: “Còn bước được thì còn tìm đồng đội”. Đó là những đồng đội đã hy sinh, hóa thân vào đất đai cây cỏ, chưa tìm thấy hài cốt và những đồng đội cuộc sống hôm nay còn gian khó…                                                                                 
                                                                                         Đào Văn Sử
CHUYỆN NGƯỜI THUYỀN TRƯỞNG TÀU SĂN NGẦM NĂM XƯA
(Chuyện kể về Đại tá Lê Văn Chừng,
xóm 2, thôn Đan Tảo, xã Tân Minh
Đại tá Lê Văn Chừng 85 tuổi đời, 65 năm tuổi đảng, 49 tuổi quân, dọc ngang khắp mọi chiến trường. Suốt 3 cuộc trường kỳ kháng chiến. Ở mặt trận nào ông cũng lập công xuất sắc. Đặc biệt Lê Văn Chừng chính là người thuyền trưởng trực tiếp chỉ huy tàu săn ngầm mang số hiệu S.225 đã bắn hạ chiếc máy bay địch đầu tiên trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ cách đây 55 năm (5/8/1964).
I. Là con trai cả trong gia đình có 4 anh em. Năm 1949, mới 15 tuổi, Lê Văn Chừng đã trở thành học sinh trường Thiếu sinh quân Nguyễn Sơn[4]. Bố cậu, ông Lê Văn Lãng lúc bấy giờ đang là huấn luyện viên của trường Võ bị Trần Quốc Tuấn tại phân hiệu Miền Trung - Thanh Hóa. Trước đây, ông Lãng từng là công chức Sở Tài Chính của Pháp làm việc tại Hà Nội. Thế nhưng, ông đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý đem theo người vợ trẻ cùng 4 đứa con thơ vào tận Thanh Hóa để làm cách mạng. Và chính ông là người đã dẫn dắt con trai mình theo con đường binh nghiệp từ rất sớm.
Trường Thiếu Sinh Quân ngày ấy đóng ở tận Hàm Phố, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh-chiếc “nôi” Cách mạng Xô Viết-Nghệ Tĩnh năm xưa, bây giờ lại trở thành  trung tâm đào luyện lực lượng trẻ cho Cách mạng. Trong trường, các học sinh được huấn luyện theo kiểu bộ đội, vừa học văn hóa, vừa rèn quân sự, tuy không có quân trang, mang mặc chính quy nhưng cũng ba lô súng ống chỉnh tề, cũng nền nếp quy củ như quân đội. Mỗi người một cây súng tre, ngoài giờ học văn hóa là những giờ thao trường nắng gió, lăn, lê, bò, toài... không khác gì những người lính “trên thao trường  có đổ mồ hôi thì chiến trường mới đỡ rơi máu đào”.  Thế rồi, quãng thời gian để làm quen với môi trường quân đội chẳng được bao lâu thì chiến trường vẫy gọi, đầu năm 1950, khóa học kết thúc. Lứa Thiếu Sinh Quân của ông Chừng, tất cả tuổi đời đều rất trẻ đã nhanh chóng nhập ngũ lên đường ra trận.
Chặng đường hành quân từ Hà Tĩnh lên Chiến khu Việt Bắc là chặng đường đầy khó khăn gian khổ đối với những chiến sĩ “nhí” mới còn đang ở cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới” như ông Chừng.
Ngày ấy, ngoài ba lô súng đạn, mỗi người còn phải mang theo 10kg gạo làm lương thực ăn dọc đường, ăn hết lại được cấp. Cứ ngày nghỉ đêm đi để giữ bí mật. Ông Chừng lúc đó làm tổ trưởng tổ 3 người nhưng sức vóc yếu ớt nên phải tiêm thuốc trợ lực và những khi ốm yếu được ưu tiên theo đội hậu cần nấu cơm (tức đi ngày nghỉ đêm). Ròng rã hàng tháng trời, chiến sĩ “nhí” Lê Văn Chừng phải gồng mình vượt qua những gian khổ đầu đời và nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ của cái tuổi vừa mới lớn.
Cho đến hôm nay đã ngót 70 năm (kể từ ngày Lê Văn Chừng đi làm cách mạng) nhưng vẫn để lại trong ông niềm day dứt đầy tiếc nuối bởi ngày ấy, trên đường hành quân đi qua ngay ngôi làng thân thuộc của mình, chỉ cách có mấy bước chân, nhưng vì đang trong lúc bận việc quân nên ông không có cơ hội được ghé qua nhà. Lần cuối cùng ông được gặp mẹ vào dịp nghỉ hè năm trước, khi phải vượt chặng đường đị bộ bảy ngày, từ trường Thiếu Sinh Quân để được về với mẹ. Sau này, mẹ ông mất khi bà mới 38 tuổi vào đúng ngày giáp Tết Giáp Ngọ (1954), trước khi quân ta mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Lê Văn Chừng được biên chế vào đơn vị C225, D322, E88, F308. Thời gian đầu, đại đội của ông tham gia đánh nhiều trận ở Tô Vũ, Nà Sản, Cò Nòi, Hát Lót, Đồn Vàng… dọc đường 41 sát biên giới bị địch phong tỏa.
II. Đầu năm 1954, chiến trường  Điện Biên nóng như chảo lửa, Bộ chỉ huy mặt trận mở chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Thời kì đầu chiến dịch đại đội của ông tham gia truy kích địch ở biên giới Việt - Lào tới tận Luông Pha Băng cùng với sự giúp đỡ tận tình của nhân dân nước bạn. Với phương châm “đánh chắc, thắng chắc”, sau khi kéo pháo ra để củng cố lực lượng ta lại đưa pháo vào và đồng loạt đánh chiếm các cứ điểm của địch. Lúc này, Lê Văn Chừng nén chặt nỗi đau vừa mất đi người mẹ kính yêu và biến đau thương thành hành động cách mạng. Trong trận đánh đồn Him Lam, C225 của ông nhận nhiệm vụ cảnh giới ở các đường mòn, hẻm núi, sẵn sàng tóm gọn những toán lính địch sống sót tháo chạy. Và ngay hôm sau, ta mở trận đánh đồi Độc Lập - một cứ điểm quan trọng của địch được bao bọc bởi hàng rào kẽm gai dày đặc, kiên cố. Đại đội ông nhận nhiệm vụ đánh bộc phá mở “đột phá khẩu”[5] cho bộ binh ta chiếm đồi Độc Lập. Thời bấy giờ, quân ta chủ yếu dùng những cây bộc phá bằng tre dài hơn 2 mét nhồi thuốc nổ bên trong (được gọi là bộc phá ống).
7 giờ tối hôm đó, ta bất ngờ điểm hỏa chuỗi bộc phá công đồn. Sau ít phút định thần, địch tung hỏa lực, câu pháo cấp tập vào các điểm ém quân của ta. Mặc cho đạn pháo địch cày xới, những chiến sỹ C225 quả cảm, hết người này đến người khác liên tục ôm bộc phá lao lên, nhiều chiến sỹ đã hy sinh anh dũng dưới làn pháo địch. Nhưng với tinh thần cảm tử, những người lính vẫn công đồn liên hồi kì trận, người này ngã xuống, người khác xông lên. Bản thân Lê Văn Chừng cũng phải đạp lên thân thể của những người đồng đội vừa ngã xuống để ôm bộc phá xông lên tiêu diệt quân thù với tinh thần “chết xanh cỏ, sống đỏ ngực”.
Cuối cùng, hàng trăm mét rào kẽm gai của địch đã bị xé toang, quân ta ồ ạt xông lên. Nửa đêm hôm đó, ta đã làm chủ hoàn toàn đồi Độc Lập. Rạng sáng hôm sau, khi đã hoàn tất các công việc bắt giữ, áp tải tù binh, thu hồi vũ khí, khí tài, giải quyết công tác thương binh, tử sỹ, quân ta lại lặng lẽ rút lui để bảo toàn lực lượng và chuẩn bị cho những trận đánh tiếp theo.
Trận đánh đồi Độc Lập có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chiến dịch Điện Biên và với riêng ông Chừng, đó cũng là một ngày trọng đại nhất trong đời. Anh lính trẻ vừa tròn tuổi 20 đã trở thành đảng viên Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) trong buổi tối ngay sau trận đánh tại một khu rừng còn khét mùi thuốc súng gần bản Hồng Lếch. Đêm trong rừng trăng suông mờ ảo, ánh lên cờ đỏ sao vàng được treo trên một thân cây. Trong buổi lễ kết nạp, ngoài ông Chừng chỉ có hai người (chính trị viên đại đội và tiểu đội trưởng). Đơn giản nhưng trang trọng, đồng chí Thích, chính trị viên đại đội trịnh trọng tuyên bố ngắn gọn nhưng đầy đủ: “Hôm nay, chiến sỹ Lê Văn Chừng đánh bộc phá rất giỏi, rất dũng cảm, tôi thay mặt tổ chức kết nạp đồng chí vào đảng. Từ giờ phút này, đồng chí đã là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, mong đồng chí luôn luôn cố gắng và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ để xứng đáng với Đảng, Bác Hồ và nhân dân, đồng chí, đồng đội”. Không một bản quyết định hay một thứ giấy tờ thủ tục, chỉ có bàn tay nắm chặt giơ lên chào lá quốc kỳ thay cho lời tuyên thệ, người đảng viên trẻ Lê Văn Chừng xúc động ôm hôn lên lá cờ đỏ sao vàng,  bất giác, trong giây phút thiêng liêng lòng ông bỗng trào lên nỗi nhớ thương vô hạn với người mẹ vừa khuất bóng. Nước mắt người con, người chiến sĩ Điện Biên lại trào ra thấm ướt góc cờ Tổ quốc trong âm hưởng hào hùng “Chín năm làm một Điện Biên/Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng…” (Tố Hữu).
Những ngày tiếp quản thủ đô là những ngày cả nước ta được sống trong niềm vui vỡ òa, vô biên hạnh phúc. Đại đoàn quân Tiên Phong trở về giữa những rừng cờ hoa phơi phới, quân dân tay bắt mặt mừng, những giọt lệ tuôn rơi vì những người đã ngã xuống cho độc lập, tự do; vì những người từ cõi chết trở về còn vương mùi khói đạn; vì những người đã chờ đợi và hướng ra nơi tuyến lửa suốt dằng dặc chín năm trường kỳ kháng chiến; vì mảnh đất Hà thành bao năm ròng oằn mình trỗi dậy nay đã kết trái đơm hoa cùng một dải sơn hà gấm vóc! Trong không khí tưng bừng ấy những người lính chiến như ông Chừng lại tiếp tục phát huy thành quả cách mạng, tinh thần người lính Điện Biên, “Bộ đội Cụ Hồ”  nhanh chóng  tỏa về các quận nội thành làm công tác dân vận, giúp nhân dân ổn định đời sống và làm công tác chuẩn bị cho một sự kiện lịch sử trọng đại: đó là đón Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ từ Chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô.
Những ngày này, anh lính trẻ Lê Văn Chừng lại hăng say lao vào tập luyện nghi thức đội, hướng dẫn văn nghệ cho các em thiếu nhi quận 8 (Gia Lâm ngày nay) và dẫn đầu đoàn thiếu niên ấy trong ngày vui đón Bác cùng đoàn Chính phủ trở về với niềm hân hoan “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về”.
III. Sau những ngày giải phóng thủ đô, những người lính vừa đi qua cuộc chiến chống thực dân Pháp lại lên đường Nam tiến, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Lê Văn Chừng bấy giờ (năm 1955) nằm trong số hơn một trăm chiến sỹ thuộc Quân chủng Hải quân được đưa sang Trung Quốc học và ông đã trở thành một trong 4 thuyền trưởng đầu tiên của Hải quân Việt Nam khi mới tròn 23 tuổi.
Năm 1960, sau đám cưới đời sống mới giản dị với cô gái trẻ (19 tuổi) Phạm Thị Minh Thông và chỉ có vẻn vẹn đúng một tuần trăng mật ở bên nhau, người Thuyền trưởng tàu pháo thuyền tuần tiễu  Lê Văn Chừng lại chia tay người vợ trẻ để sang Liên Xô (cũ) huấn luyện tại Hạm đội Thái Bình Dương và nhanh chóng trở thành Thuyền trưởng tàu săn ngầm với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” do đế quốc Mỹ gây ra và trận chiến ngày 05/08/1964 đã đi vào lịch sử của dân tộc, đánh dấu một chiến công vang dội của Hải quân nhân dân Việt Nam mà trong đó ông Chừng là một trong những nhân chứng sống của chiến thắng trận đầu.
Ngày 5/8/1964, ngay từ sáng sớm, Không quân - Hải quân Mỹ đã đồng loạt tấn công các căn cứ Hải quân của ta từ dọc sông Gianh (Quảng Bình) ra tới Nghệ An, Thanh Hóa, tới tận Quảng Ninh, Hải Phòng. Với ý đồ “chơi tới bến” nhằm đánh phủ đầu và triệt hạ hải quân ta trên cả mặt trận không chiến và thủy chiến. Mặc dù lực lượng Hải quân Việt Nam còn non trẻ, vũ khí thô sơ, nhưng những “kình ngư”của ta vẫn gan dạ đối mặt với bầy ó biển hung dữ, điên cuồng. Hôm đó, tàu S.225 do Lê Văn Chừng làm Thuyền trưởng có nhiệm vụ trực ban chiến đấu. Với chức năng chủ yếu săn ngầm nên tàu S.225 không được trang bị hỏa lực đủ mạnh để tấn công tàu mặt nước hay phòng không hữu hiệu. Trên tàu chỉ được gắn hệ thống định vị thủy âm cùng 2 giàn thả bom nổ sâu dưới nước. Còn 2 khẩu 25 ly đặt ở mũi và đuôi tàu chỉ mang tính chất tự vệ là chính. Ấy vậy mà điều kỳ diệu đã xảy ra. Trong một ngày nắng như đổ lửa, các chiến sỹ tàu S.225 gần như phải xoay trần để chống chọi với cái nắng như thiêu như đốt, tất cả chỉ quần đùi, áo lót, đội mũ sắt  nhưng các thủy thủ vẫn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao.
14 giờ, qua nửa ngày chờ đợi hết sức căng thẳng, tiếng còi báo động bỗng rú lên, ngay lập tức, hàng đàn máy bay Mỹ từ biển bay là sát mặt nước để tránh phát hiện của ra đa, rồi bất ngờ ập đến đánh thẳng vào đội hình tàu chiến của ta tại vịnh Hạ Long. Sự mưu trí, linh hoạt và cảm quan quân sự của người thuyền trưởng từng là lính Điện Biên, ngay tức khắc Lê Văn Chừng hạ lệnh chặt đứt dây neo và cho con tàu cơ động chạy thẳng ra Cửa Lục. Bởi lẽ, ông là người rõ hơn ai hết, khi con tàu lao đi là đồng nghĩa với việc phải chấp nhận cuộc chiến đấu một mất, một còn với bầy ó biển, nhưng đổi lại sẽ tránh được tổn thất to lớn cho những tàu chiến và ngư thuyền cư trú ở nơi bến đậu.
Sau đợt oanh kích đầu tiên, tốp máy bay địch đang vòng theo hướng Hoành Bồ để quay trở lại, phát hiện có một con tàu lẻ loi trên biển, lập tức 8 tên giặc nhà trời tập trung tấn công hòng nuốt chửng tàu săn ngầm S.225.  Bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thuyền trưởng Lê Văn Chừng chỉ huy con tàu với những tính toán chuẩn xác, vừa cho tàu tăng tốc, vừa chỉ thị mục tiêu cho pháo thủ Bùi Mạnh Hùng đánh trả khi máy bay địch bổ nhào. Phát hiện phía bên phải một chiếc máy bay Sky Hawk AD6 đang chọn góc tiếp cận 30 độ và bổ nhào từ độ cao 3000 mét vào hướng tấn công, thuyền trưởng Lê Văn Chừng lệnh cho mọi người sẵn sàng đón đánh. Khi pháo thủ báo cáo đã chọn xong mục tiêu, đợi chiếc máy bay vào đúng tầm ngắm, người thuyền trưởng hét lên lạc giọng: “Bắn!”. Trong tiếng đạn nổ đinh tai, ông Chừng vẫn kịp nhìn thấy rất rõ làn đạn từ con tàu săn ngầm S225 găm thẳng vào chiếc AD6 bốc cháy ngùn ngụt. Tên phi công Mỹ hoảng hốt cố vọt lên cao tìm đường tháo chạy... 7 chiếc máy bay còn lại sợ hãi bám đuôi nhau chuồn thẳng. Lúc đó, những tiếng reo hò “Cháy rồi, cháy rồi!” ầm vang mặt biển. Chiếc AD6 ăn đạn săn ngầm chỉ bay ra được tới Bái Tử Long thì đâm đầu xuống biển, tên trung úy phi công Alvarez nhảy dù và bị bắt sống. Đây là trận đánh sinh tử, một cuộc so găng đúng nghĩa giữa “kình ngư” và “ó biển” và kết cục là hàng không mẫu hạm USS Constellation nếm thất bại đầu tiên trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Việt Nam.
Khi mặt biển bình yên trở lại, các chiến sỹ mới biết con tàu chiến săn ngầm thân yêu đã bị thương với hàng chục lỗ đạn trên mình và riêng tại vị trí chỉ huy, một viên đạn đã đâm thẳng vào ca-bin buồng lái,, nhưng may mắn có tấm thép dày đã che chở cho người thuyền trưởng Lê Văn Chừng. Ngay tối hôm đó, cả tàu của ông được vinh dự đón Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuống tận nơi thăm, động viên khen ngợi kịp thời. Và ngay ngày hôm sau, hai tấm Huân chương Chiến công hạng Ba cho tàu S.225 và cho cá nhân thuyền trưởng Lê Văn Chừng, một Huân chương Chiến công hạng Nhì cho pháo thủ Bùi Mạnh Hùng đã được trao tận tay cho những người chiến thắng, con tàu và những người con đã lập nên kỳ tích trong trang sử hào hùng của hải quân Việt Nam anh hùng.
Có một điều đặc biệt ít ai ngờ tới, người đưa tin chiến sự và chiến thắng rất kịp thời về trận đánh có một không hai trong lịch sử hôm đó, không ai khác, chính là nữ điện báo viên Phạm Thị Minh Thông, vợ của người thuyền trưởng Lê Văn Chừng. Lúc đó, chị đang công tác tại Đài điện báo Trung ương, Phạm Thị Minh Thông là người phát những tín hiệu đầu tiên lên bản tin cả nước và thế giới. Và điều bất ngờ hơn cả là chỉ đến khi con tàu mang thắng lợi trở về với niềm hân hoan vô bờ bến của những “chiến sĩ” truyền  thông (bưu điện) mới vỡ òa hạnh phúc đến mức suýt chút nữa thì ngất xỉu khi biết rằng chính người chồng thân yêu của mình Lê Văn Chừng đã trực tiếp chỉ huy con tàu S.225 đánh thắng trận đầu ấy.
Sau này, mỗi khi nhắc đến viên phi công Mỹ bị bắn hạ trong trận đầu chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Đại tá Hải quân Lê Văn Chừng thường chia sẻ: “Khi ấy, tôi mới là trung úy và Alvarez cũng vậy. Chúng tôi bằng tuổi nhau. Lẽ ra hải quân Mỹ không nên dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ, lẽ ra anh ta không nên tấn công chúng tôi ngày hôm đó. Chúng tôi yếu hơn họ gấp trăm lần, nhưng nếu phải chiến đấu, chúng tôi sẽ đánh mạnh hơn họ gấp nghìn lần.”
Chỉ 30 tuổi đời với những chiến công mang tính lịch sử, thuyền trưởng Lê Văn Chừng vẫn vững vàng trên trận tuyến chống quân thù. Sau những tháng ngày tiếp tục được học tập ở Liên Xô (năm 1967), ông vẫn gắn bó với những con tàu săn ngầm để bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
IV. Năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông đã thu về một mối, ông Chừng vẫn trọn đời binh nghiệp xa nhà, ông được điều vào Sài Gòn, là cán bộ Cục Tác chiến tiền phương ở Tân Sơn Nhất. Vẫn những năm tháng biền biệt đi kháng chiến, những năm 79 - 85 ông lại rời những con tàu sang tận Phnôm-pênh (Campuchia) làm Trưởng phòng Quân chủng (Hải quân, Phòng không, Không quân)  thuộc Cục Tác chiến - Bộ tổng tham mưu - Bộ Quốc phòng chỉ huy Mặt trận biên giới Tây Nam tại Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam giúp bạn Campuchia.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả, ông Chừng lại được quay về Học viện Hải quân Leningrat. Lần thứ 3 tại Liên Xô (năm 1985), người thuyền trường từng dạn dày chiến trận vẫn bước tiếp con đường mình đã chọn, để lại quê hương cả một hậu phương thương nhớ, dẫu có đến cả 10 năm ông không có một ngày nghỉ phép ít ỏi cho riêng mình. Biển xanh vẫy gọi, đảo quê hương vẫn là nơi ông hướng tới. Chính vì vậy vào những năm 88 – 89, tình hình Biển đông phức tạp, ông lại tình nguyện đi theo tiếng gọi của đảo xa, tham gia làm phó Ban xây dựng nhà giàn DK1, để dựng lên những “cột mốc chủ quyền” trên biển quê hương. Những nhà giàn DK1 mọc lên sừng sững giữa trùng khơi như một biểu tượng oai hùng tượng trưng cho dũng khí Việt Nam mà trong đó có sự đóng góp không nhỏ của những người đã từng một thời xông pha chiến trận nơi đầu sóng ngọn gió như Đại tá Hải Quân nhân dân Việt Nam Lê Văn Chừng - người Thuyền trưởng tàu săn ngầm năm ấy...
                                                                                                                                         Nguyễn Thị Lý
TIỂU ĐOÀN MANG TÊN PHÙ ĐỔNG
(Theo lời kể của CCB Nguyễn Văn Đinh, xã Đức Hòa,
nguyên đại đội Trưởng đại đội 3 anh hùng,
thuộc tiểu đoàn Phủ Đổng - Sóc Sơn)
Bị thua đau trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ ngày càng điên cuồng mở rộng những đợt đánh phá ác liệt bằng không quân ra miền Bắc. Tuổi trẻ khắp nơi sục sôi lòng căm thù giặc. Lên đường đánh Mỹ đã trở thành khát vọng cháy bỏng của hàng triệu thanh niên miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Ngày 28/01/1966, hàng trăm người dân cùng đại diện các ban ngành đoàn thể: thanh niên, phụ nữ… mang theo cờ, khẩu hiệu nô nức đổ về tập trung tại sân kho đội 2, thôn Đan Tảo, xã Tân Minh huyện Đa Phúc (nay là Sóc Sơn) để tiễn đưa người thân lên đường nhập ngũ. Trong không khí tưng bừng của buổi lễ giao quân, đồng chí Nguyễn Văn Tỵ, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Đa Phúc trịnh trọng tuyên bố: “Hôm nay, trên mảnh đất Tân Minh, thay mặt Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Đa Phúc, tôi tuyên bố quyết định thành lập Tiểu đoàn Phù Đổng và trao lá cờ mang dòng chữ: “Tiểu đoàn Phù Đổng quyết chiến quyết thắng” cho các đồng chí. Đây là niềm tin yêu và cũng là lời nhắn nhủ của hậu phương gửi ra tiền tuyến. Ngày mai ra mặt trận, các đồng chí hãy phát huy truyền thống quê hương, theo bước chân Phù Đổng, chiến đấu dũng cảm, quên mình, lập công xuất sắc, góp phần cùng toàn quân và toàn dân giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
 Thay mặt hơn bốn trăm thanh niên lên đường nhập ngũ, tân binh Nguyễn Văn Đinh, Phó Bí thư Đoàn xã Đức Hòa phát biểu hứa hẹn quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xứng đáng với truyền thống quê hương Thánh Gióng - người anh hùng dân tộc. Và ngày 28/01 từ đó trở thành ngày đáng ghi nhớ như một dấu mốc lịch sử gắn liền với cái tên “Tiểu đoàn Phù Đổng” trong ký ức của mỗi người lính Sóc Sơn ngày ấy...
Sau buổi lễ ra quân được tổ chức long trọng và ấm tình quê hương, Tiểu đoàn Phù Đổng hành quân lên Phú Bình (Thái Nguyên) và được biên chế vào Sư 304B (Quân khu Việt Bắc) để huấn luyện. Ngoài súng bộ binh AK47, B40, B41, Tiểu đoàn được trang bị 18 khẩu 12,7 ly. Đây là loại súng chủ yếu dùng để tiêu diệt các mục tiêu trên không ở độ cao thấp và cực thấp như máy bay trực thăng, máy bay vận tải, trinh sát kể cả máy bay phản lực bổ nhào. Khi cần, có thể hạ nòng tiêu diệt những mục tiêu mặt đất và cả những mục tiêu mặt nước... nhưng đó chỉ là lý thuyết cơ bản. Ngoài việc huấn luyện, tiểu đoàn Phù Đổng còn thực hiện phương châm học đi đôi với hành, trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ vùng trời khu gang thép Thái Nguyên. Có một tình huống xảy ra trong lúc báo động bắn máy bay địch, đang trong lúc các khẩu đội 12,7 ly của tiểu đoàn nhanh chóng vào vị trí chiến đấu. Do vội vàng, chưa có kinh nghiệm, không kiểm tra cẩn thận giá đỡ trước khi nạp đạn nên một khẩu đội 12.7 ly đang bắn thì bất ngờ súng bị nghiêng lệch rồi đổ kềnh ra. Cứ thế đạn bắn ra tung tóe làm cho mọi người hoảng hồn. Đó là một bài học nhớ đời cho Nguyễn Văn Đinh và mỗi chiến sỹ Tiểu đoàn Phù Đổng trong những trận chiến đấu sau này ở chiến trường miền Nam.
  Kết thúc khóa huấn luyện, cả tiểu đoàn nhanh chóng chuẩn bị hành trang lên đường vào Nam chiến đấu. Thời gian này, đế quốc Mỹ đang tăng cường đánh phá các tuyến đường sắt miền Bắc nên đơn vị phải hành quân bộ từ ga Phủ Lý. Vượt Trường Sơn, trèo đèo lội suối, đói khát, bom đạn, bệnh tật nhưng suốt dọc đường hành quân, những người con của quê hương Núi Sóc tuyệt nhiên không có người nào thoái thác nhiệm vụ. Nhiều khi kiệt sức, giữa rừng tưởng chừng không thể gượng nổi nhưng anh em vẫn bám vào nhau, đùm bọc và động viên, dìu dắt nhau cùng vượt qua. Đường hành quân càng gian khổ bao nhiêu thì tình thương yêu đồng chí, đồng đội, đồng hương lại càng trở nên gắn bó máu thịt bấy nhiêu. Đau đớn nhất là mỗi khi phải chôn cất anh em đồng đội mình trên đường hành quân vì sốt rét trong lúc sức lực ai cũng đã cạn kiệt, hơn nữa phải bảo đảm thời gian hành quân nên không thể đào huyệt chôn sâu được. Điều đó thì ai cũng biết nhưng vẫn phải cắn răng chịu đựng. Cần nhất là phải đánh dấu, ghi tên cẩn thận để sau này ai có dịp trở lại thì nhớ đưa đồng đội mình về quê. Cứ như thế, ngày nghỉ, đêm đi bí mật, ròng rã suốt hơn 6 tháng trời mới vào đến Tây Ninh trong tình trạng quân số của Tiểu đoàn hao hụt quá một nửa do ốm đau bệnh tật và trúng bom B52 của Mỹ. Giờ chỉ còn khoảng trên dưới 200 người quê Đa Phúc được ghép vào thành Đại đội 3, Tiểu đoàn 24, trực thuộc Sư đoàn 7 bộ binh.
Để chuẩn bị cho cuộc phản công chiến dịch mùa khô lần thứ hai (từ ngày 12/10 cho đến ngày 25/11/1966), đế quốc Mỹ bất ngờ mở cuộc đột kích bằng 240 chiếc máy bay trực thăng ồ ạt chở quân đổ xuống các bãi tập kết của ta, hòng nghiền nát mọi lực lượng chống đối để dễ bề tiêu diệt hoặc bắt sống cơ quan đầu não cùng các lực lượng chính qui của quân Giải phóng, nhưng đã không có một trận đánh lớn nào xảy ra. Quân Giải phóng phân tán lực lượng, thực hiện cách đánh mai phục, đón lõng, bất ngờ tập kích vào các đơn vị của địch rồi nhanh chóng rút lui an toàn. Trên những cánh rừng Tây Ninh lúc nào cũng thấy máy bay địch bay lượn, có khi cả bầy đàn vài chục chiếc trực thăng phành phạch trên đầu nhưng chiến sĩ ta cứ phải im lặng nhìn theo mà thấy ngứa ngáy khó chịu không dám hành động vì phải chấp hành nghiêm kỷ luật chiến trường.
Sau 53 ngày đêm, địch không những không đạt được bất kỳ mục tiêu nào mà còn bị quân Giải phóng gây cho nhiều tổn thất nặng nề, tiêu diệt 14.233 tên Mỹ, phá hủy 922 xe, 112 khẩu pháo, bắn rơi 160 máy bay, trong đó có 114 máy bay trực thăng. Riêng Đại đội 3 của Nguyễn Văn Đinh bắn rơi 17 chiếc, trong đó có 2 máy bay phản lực và 15 máy bay trực thăng vận. Tuy nhiên địch cũng đã gây cho ta vô vàn khó khăn, đặc biệt về lương thực, nguồn sống của bộ đội lúc đó chủ yếu dựa vào những thứ kiếm được trong rừng. Cả đơn vị ai cũng xanh xao, gầy guộc, ốm yếu, quần áo rách tả tơi vậy mà ngày đêm vẫn quyết tâm chiến đấu. Có lần đi kiếm rau rừng, thấy Nguyễn Văn Đinh vẻ ốm yếu quá, chiến sĩ Hoàng Minh Tô và Nguyễn Văn Toan, quê xã Xuân Thu đã động viên: “Anh phải cố lên! Chúng em thì không sao nhưng anh còn chị và các cháu”.  (Nguyễn Văn Đinh nhiều tuổi hơn lại là cán bộ Đoàn của xã nên anh em trong đơn vị luôn coi Đinh như người anh cả của mình). Nguyễn Văn Đinh rất xúc động, biết là mọi người đang lo lắng cho mình nhưng cả Đại đội 3 bây giờ có ai khỏe mạnh nữa đâu. Vậy mà mọi người cứ lo cho nhau, nhường nhịn nhau từng bát rau bát cháo. Anh động viên mọi người: “Phải mạnh mẽ lên, không thằng nào được gục ngã lúc này! Chúng mình vào đây chiến đấu không biết đã bao nhiêu trận rồi mà không chết. Nhất định chúng ta sẽ trở về cùng với Tiểu đoàn Phù Đổng làm rạng danh quê hương Đa Phúc”. Khi nhắc đến cái tên “Tiểu đoàn Phù Đổng”, bỗng nhiên mọi người ai nấy đều rưng rưng cảm kích và như được tiếp thêm sức mạnh, lại tiếp tục đứng lên, đi kiếm rau rừng...
  Sau thất bại nặng nề trong hai cuộc phản công chiến dịch mùa khô, tinh thần Mỹ, Ngụy bị lung lay. Với tinh thần “thừa thắng xốc tới”, tháng 01/1968 ta chủ động mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nhằm giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ - Ngụy. Đại đội 3, tiểu đoàn 24 (Phù Đổng) trong đội hình chiến đấu của Sư đoàn 7 tại mặt trận Bình Dương, có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, Bộ Chỉ huy, ngăn chặn các đường chi viện của quân đội Mỹ và chư hầu, đặc biệt bằng đường không. Trong trận này, đại đội đã anh dũng chiến đấu, cùng các đơn vị bạn bắn rơi 31 máy bay địch. Ngay sau đó là những trận bom B52, những trận pháo kích triền miên vào khu vực đóng quân của Sư đoàn. Quân số hy sinh vì bom B52 và pháo địch đã lên tới hơn 100 người. Đơn vị phải nhiều lần thay đổi địa điểm đóng quân, thay đổi toàn bộ phương án tác chiến và các kế hoạch công tác của toàn Sư đoàn. Năm 1970, Nguyễn Văn Đinh được đề bạt làm đại đội trưởng và chỉ huy đơn vị trong đội hình chiến đấu của Sư đoàn 7 hành quân sang Campuchia để bảo vệ Trung ương Cục miền Nam.
   Như đánh hơi được quân ta, nửa đầu năm 1970, quân đội Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn, có máy bay, xe tăng yểm trợ đã bất ngờ tấn công vào căn cứ của ta ở Campuchia. Sư đoàn 7 phối hợp với căn cứ 20 và du kích đẩy lùi Sư đoàn 25 và Trung đoàn thiết giáp số 7 của Mỹ. Riêng đại đội 3 mặc dù chưa được bổ sung đầy đủ quân số nhưng đã anh dũng chiến đấu bắn rơi 7 máy bay địch.
     Đầu năm 1971, Mỹ - Ngụy lại tiếp tục tấn công vào căn cứ Quân đội Việt nam ở Campuchia và một lần nữa chúng lại bị Sư đoàn 7 đánh cho tơi tả. Sang đến giữa năm 1970, Sư đoàn 7 đã cơ bản phục hồi lực lượng và chủ động tiến công xóa sổ Trung đoàn 18 thiết đoàn của Ngụy quyền Sài Gòn. Đại đội 3 (tiểu đoàn Phù Đổng) đã sử dụng súng 12,7 ly tiêu diệt 1 xe tăng và 4 xe cơ giới của địch.
    Do yêu cầu của trên, đầu năm 1972, Đại đội 3 trong đội hình Sư đoàn 7 bí mật hành quân về nước và án ngữ tại An Lộc, dựng bức “tường thép” trên quốc lộ 13, ngăn cản không cho quân địch tiếp viện và cứu nguy An Lộc. Ngày 13/4/1972, xe tăng quân giải phóng rầm rập tiến vào thị xã An Lộc. Toàn bộ các kho nhiên liệu, đạn dược của địch bị pháo ta bắn trúng, cháy nổ dữ dội. Đại đội 3 (tiểu đoàn Phù Đổng) cùng các khẩu đội 12,7 của tiểu đoàn được dịp bắn thỏa sức vào những chiếc trực thăng vận đang nặng nề chở quân tiếp viện đến An Lộc. Trong đó, có chiếc trực thăng chở tên Đại tá Ngụy Trương Hữu Đức đang ngồi chỉ huy trên máy bay cũng bị tiêu diệt.
Sau trận đánh, Phó Chính ủy Sư đoàn và Chính trị viên Tiểu đoàn 24 (Phù Đổng) Nguyễn Xuân Thinh mời Nguyễn Văn Đinh, Đại đội trưởng Đại đội 3 và đồng chí Dẫn, Đại đội trưởng Đại đội 1 lên trao đổi: “Hiện nay cấp trên đang có hướng xây dựng đơn vị ta có một tập thể đại đội và một cá nhân anh hùng. Đảng ủy Sư đoàn xét thấy về tập thể thì Đại đội 1 và Đại đội 3 của Tiểu đoàn (Phù Đổng) đều rất xứng đáng. Về cá nhân, hai đồng chí Đinh (đại đội trưởng đại đội 3) và đồng chí Dẫn (đại đội trưởng đại đội 1) đều là những cán bộ mẫu mực và có nhiều thành tích xuất sắc trong chiến đấu. Cả hai đều xứng đáng được đề nghị phong tặng danh hiệu anh hùng đợt này. Tuy nhiên, chỉ tiêu của trên chỉ được một trong hai nên Sư đoàn muốn tranh thủ ý kiến của các đồng chí”.
  Thực ra trong chiến đấu, giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc mà chẳng ai nghĩ ngợi gì, huống hồ thành tích, thì đâu phải là chuyện tính toán thiệt hơn. Song, hình ảnh nồng ấm của quê hương trong buổi tiễn đưa thanh niên lên đường nhập ngũ, những lời nói ân tình, ấm áp như mệnh lệnh: “…Tôi trao lá cờ mang dòng chữ Tiểu đoàn Phù Đổng quyết chiến quyết thắng cho các đồng chí…” và cả những lời hứa hẹn quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ của Nguyễn Văn Đinh, thay mặt hơn bốn trăm anh em quê hương Sóc Sơn hôm ấy Tất cả hiện lên, âm vang lời thề son sắt mà Đại đội 3 chính là linh hồn của Tiểu đoàn Phù Đổng. Nghĩ tới đây, Nguyễn Văn Đinh liền giơ tay đứng lên xin phát biểu, phá tan sự im lặng trong căn phòng của nhà Ban Chỉ huy tiểu đoàn: “Tôi nghĩ, về cá nhân thì tôi xin rút lui và đề xuất đồng chí Dẫn, đại đội trưởng đại đội Một. Còn tập thể, đề nghị cấp trên xem xét đại đội Ba của tiểu đoàn 24 (Tiểu đoàn mang tên Phù Đổng) là xứng đáng”. Và đó cũng chính là ý kiến kết luận cuối cùng của đồng chí Phó Chính ủy Sư đoàn 7 hôm ấy.
 Trải qua những năm tháng chiến đấu anh dũng, lập nhiều chiến công xuất sắc trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Ngày 23/9/1973 đã ghi vào lịch sử của những người con quê hương Núi Sóc, Đại đội 3, Tiểu đoàn 24 (mang tên Phủ Đổng, thuộc Sư đoàn 7) vinh dự được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.  
  Có những chuyện trong cuộc sống đời thường diễn ra và rất khó lý giải. Phải chăng duyên số đã gắn kết Nguyễn Văn Đinh không thể rời xa Tiểu đoàn Phù Đổng. Cuối năm 1972, với những thành tích đạt được trong chiến đấu và xây dựng đơn vị, Nguyễn Văn Đinh được cấp trên cất nhắc đề bạt làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 24. Tưởng rằng xa Đại đội 3, vậy mà gần một năm sau, khi đồng chí Trần Văn Mai - Đại đội trưởng hy sinh, cấp trên lại điều anh quay trở lại làm Đại đội trưởng Đại đội 3 Anh hùng, trong niềm vui hân hoan chào đón người anh cả trong gia đình nay lại trở về với “cái nôi” của Tiểu đoàn Phù Đổng.
  Sau chiến dịch Nguyễn Huệ, Sư đoàn 7 được giao nhiệm vụ tiến hành vây lỏng An Lộc (chiến trường cũ). Trong suốt những năm 1973 - 1974, nhiệm vụ của đại đội 3 cùng với các đơn vị trong tiểu đoàn tổ chức chốt giữ quyết không cho địch lấn chiếm đất đai...
Ngày 26/4/1975, cuộc tổng tiến công quy mô lớn vào Sài Gòn bắt đầu. Quân ta nổ súng đồng loạt trên toàn mặt trận. Tiếng gầm thét của đại bác từ gần 30 tiểu đoàn pháo binh của quân Giải phóng dội vào các căn cứ của địch kéo dài gần một giờ đồng hồ làm rung chuyển nội đô Sài Gòn. Đại đội 3, Tiểu đoàn 24 (Phù Đổng) trong đội hình của Sư đoàn theo hướng đông bắc “thần tốc” thẳng tiến về Sài Gòn. Với ưu thế áp đảo, quân ta ào ạt tiến công thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu quan trọng. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Tổng thống Dương Văn Minh chấp nhận tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường kỳ 21 năm. Đất nước từ đây liền một dải, Bắc Nam xum họp một nhà.
 Năm tháng sẽ qua đi nhưng không khí sục sôi lên đường đánh Mỹ của lớp lớp những người con quê hương Đa Phúc (nay là Sóc Sơn), đặc biệt những chiến sĩ Tiểu đoàn Phù Đổng năm xưa sẽ là niềm vinh dự, tự hào của các tầng lớp nhân dân trong huyện, nhất là đối với thế hệ trẻ Sóc Sơn hôm nay và mãi mãi mai sau luôn ghi nhớ, trân trọng, giữ gìn và phát huy truyền thống quý báu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.  
                                                                               Phạm Văn Năm (ghi)
GIÁ MÀ KHÔNG CÓ CHIẾN TRANH…
(Viết về Liệt sỹ Nguyễn Minh Nhạn,
thôn Dược Hạ, xã Tiên Dược)
Biết tôi đang “săn lùng” tư liệu để tham gia viết bài cho tập sách “CHUYỆN THƯ THỜI CHIẾN SÓC SƠN”, một người bạn văn - với giọng điệu nghiêm túc - gọi điện, bảo “Tìm đâu cho xa! Đến làng anh đây này, chắc chắn cô sẽ được toại nguyện!”. Làm sao có thể bỏ qua cơ may hiếm có này cơ chứ! Tôi lập tức thu xếp công việc đi gặp người bạn rồi theo chân anh tới nhà của một cựu chiến binh nằm ở giữa thôn Dược Hạ (xã Tiên Dược). Căn nhà hai tầng  bình thường như nhiều căn nhà hai tầng khác song điều đặc biệt ở đầu hồi có hai cây nhãn cổ thụ, cành lá sum xuê tươi tốt.
          - Hai cây nhãn này anh tôi đem từ đất nhãn Hưng Yên về đấy, gần sáu mươi năm rồi quả vẫn sai, vẫn ngọt như ngày đầu! - Ánh mắt anh chủ nhà lộ rõ niềm xúc động khi trân trọng đặt cuốn nhật ký xuống mặt bàn.
- Tôi là Nguyễn Minh Nhội, em trai duy nhất của liệt sỹ Nguyễn Minh Nhạn! Anh tôi thế nào ư? Tấm chân dung kia đã đẹp, song bên ngoài anh ấy còn hơn thế nhiều! Về tính cách á… Chị bảo được nghe anh đây (chỉ bạn tôi) giới thiệu tôi là người nhanh nhẹn, tháo vát, nhiều tài lẻ song nếu đem so với anh Nhạn tôi chẳng được một góc! Thật đấy, đọc xong cuốn nhật ký của anh ấy, chị sẽ hiểu phần nào. Tôi cứ ước... giá mà không có chiến tranh…
Ai đã từng trải qua hai chế độ hẳn còn nhớ năm 1945. Đó cũng là ngày sinh nhật của đời tôiCha tôi ra đi làm Cách mạng lúc tôi còn ẵm ngửa. Mẹ tôi ốm vì đói rét nên không có sữa...Cả làng xóm đều cùng cảnh ngộ…*”.
Cuốn nhật ký mở đầu bằng những dòng chữ xót xa như vậy đấy. Quả thực, với mỗi người dân Việt Nam, năm Ất Dậu (1945) mãi mãi không thể nào quên với nỗi tang tóc thương đau: hàng triệu người bị chết đói; Song, năm 1945 cũng là năm đánh dấu một mốc son chói lọi: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời xóa tan bóng đêm nô lệ, mở ra một chân trời mới cho lịch sử nước nhà. Có lẽ vì nguyên do đó mà ông Nguyễn Vọng đặt cho Trưởng nam của mình cái tên: Nguyễn Minh Nhạn (có nghĩa là con chim Nhạn tung cánh bay dưới bầu trời tươi sáng, đem tin vui đến cho mọi người). Nhưng từ ước mong trở thành hiện thực đâu có dễ khi mà Thực dân Pháp trở lại giày xéo mảnh đất quê hương một lần nữa. Tuổi thơ của Nguyễn Minh Nhạn hằn sâu những đói rét, bần hàn.
Tôi có cảm giác mỗi con chữ như được viết ra từ nước mắt:
 “Năm 1949, em giai tôi ra đời giữa lúc cả làng chạy giặc xuống Đồng Quít, một cái trại nhỏ bé thuộc xã Mai Đình ngày nay. Gia đình tôi có bà nội, mẹ và hai chị gái tôi, tôi, em giai tôi với bà cô ruột và đứa cháu, ra đi chỉ có đôi thúng cái bựt vành với hai mảnh chiếu manh, một cái cuốc mòn… Năm 1950, về lại vùng tề, khổ đến nỗi phải cho củ chuối vào cối giã rồi nấu lên thay cơm…”.
Cùng quẫn, mẹ và hai chị gái phải đi ở cho nhà giàu, địa chủ trong vùng, đổi mồ hôi nước mắt lấy củ khoai, bát gạo để gia đình lay lắt sống qua ngày. Hình ảnh người mẹ in đậm trong tâm trí Nguyễn Minh Nhạn: “Chiếc áo tơi rách đến đầu gối, cái nón mê, bộ quần áo vá chằng vá đụp như ăn mày…”. Nghèo đến độ không thể nghèo hơn lại còn phải gánh thêm nỗi đớn đau về tinh thần:  “…Bố tôi đi bộ đội cho nên thường bị những thằng lính dõng truy nã, khổ đến nỗi thằng em giai tôi nó phải nhận mấy ông hàng xóm làm bố. Khổ thế, một đứa trẻ có bố mà phải làm cái chuyện che mắt những thằng chó má bám đít Tây”. Làm sao có thể không nuôi mầm uất hận? Làm sao có thể không nuôi chí căm hờn? Chắc chắn chú bé ấy sẽ sớm bước chân vào con đường Cách mạng theo người cha kính yêu của mình nếu như năm 1954 cuộc kháng chiến chống Pháp chưa giành thắng lợi.
Hòa bình về! Đất trời, cảnh vật, con người trên khắp miền Bắc cũng như quê hương Đa Phúc được hồi sinh, “Nhà nhà được chia trâu cày, ruộng cấy…”.  Từ khi còn là chú bé con đến khi đặt bút viết những dòng nhật ký này có dễ đã trải qua gần mười năm, vậy mà Nguyễn Minh Nhạn vẫn trào dâng cảm xúc biết ơn đến nghẹn ngào: “Đảng đã đem lại cuộc sống mới cho gia đình tôi…”. Vâng! Nhờ có Đảng, mẹ và hai chị gái mới không còn phải đi ở đợ; Nhờ có Đảng, cả nhà mới được quây quần bên nồi cơm gạo mới bốc hơi nghi ngút và  nhờ có Đảng, gia đình Nguyễn Minh Nhạn mới có niềm vui lớn, lớn tới mức anh phải reo lên - tiếng reo thánh thót trên dòng nhật ký: “Một buổi chiều mùa hạ năm 1955, cha tôi đã về, đã về… Bao nhiêu năm xa cách, nay mới có ngày đoàn tụ…”.
Mười tuổi, ước mơ cắp sách đến trường của Nguyễn Minh Nhạn thành hiện thực. Với thành tích học tập xuất sắc, được “Nhà trường khen thưởng tới ba lần…”.  Mùa đông năm 1961, vừa bước sang tuổi “bẻ gãy sừng trâu”: “Tôi được đi học trường Trung cấp nông nghiệp Vĩnh Phúc, một trường cán bộ được đào tạo có tổ chức và quy mô lớn, được bồi dưỡng về chính trị, xã hội, về nghiệp vụ…”. Thế là “con chim Nhạn” đã thật sự tạm biệt mái ấm gia đình, tạm biệt bạn bè để cất cánh bay tới chân trời mới đầy hoa thơm cỏ lạ mà cũng đầy giông bão… Vừa học văn hóa vừa học nghiệp vụ chuyên môn, rồi những chuyến đi thực tập về các huyện, các nông trường trong và ngoài tỉnh giúp Nguyễn Minh Nhạn chín chắn và trưởng thành hơn rất nhiều cả trong suy nghĩ và hành động.
 Thầm thoắt: “Mười tám tháng ở trường trung cấp trôi qua, thi tổng kết tôi đạt vào loại khá thế là tốt nghiệp ra trường…”. Trở về quê hương “Chi bộ giao cho tôi phụ trách kỹ thuật nông nghiệp về nhân giống và các khâu chuyên môn”. Chức danh nghe thì to tát thế, trên thực tế “Chỉ có mình tôi với con bò và hơn mẫu ruộng…”. Thoạt đầu, không phải không có đôi chút hẫng hụt song cảm giác ấy tan nhanh như cơn mưa bóng mây, anh lao vào công việc với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ, với khát khao được cống hiến, với mơ ước áp dụng có hiệu quả kiến thức đã học góp phần xây dựng quê hương thêm giàu đẹp. Giấc mơ của anh thường có bóng dáng đàn bò mập mạp cả trăm con đủng đỉnh bước trên đồng cỏ xanh miên man; Những ruộng lúa giống mới chín vàng trong nắng chờ tay người gặt; Những khu vườn trồng bưởi Diễn, cam Bố Hạ, nhãn lồng Hưng Yên… nối tiếp nhau tới tận chân trời.
Vốn tính năng nổ, nhanh nhẹn lại ưa thích hoạt động xã hội nên ngoài việc chuyên môn, Nguyễn Minh Nhạn còn tham gia rất nhiều công tác khác ở địa phương như: đội viên Đội giao thông đặc biệt của huyện với nhiệm vụ chuyển giấy tờ, công văn, điện tín khẩn trong phạm vi toàn huyện Đa Phúc; Giáo viên dạy văn hóa cho nhân dân trong xã đặc biệt với khả năng ăn nói lưu loát, lại được trời phú cho ngoại hình bắt mắt, giọng hát hay, anh là một thành viên quan trọng của đội Thông tin Văn hóa.
Với ngần ấy ưu điểm, Nguyễn Minh Nhạn được rất nhiều người (từ già tới trẻ) quí mến và lẽ dĩ nhiên không ít cô gái ‘thầm yêu trộm nhớ”. Là người đa cảm, đôi ba lần chàng trai Nhạn cũng xao xuyến trước “bông hồng” nào đó, song tất cả chỉ như làn gió thoảng qua mặt hồ… Cho tới khi gặp người con gái ấy... tên Sâm: “Tôi bắt đầu quen cô vào mùa xuân năm 1962, khi ấy cô đang theo học lớp y tá ở tỉnh… Chúng tôi thường gặp nhau trên cùng chuyến tàu…”. Có lẽ chuyện chỉ dừng ở những câu nói vu vơ, những cái liếc “vụng trộm” nếu như không có cuộc gặp mặt đầy bất ngờ:
Vào dịp Tết năm 1963, từ trường trung cấp nông nghiệp trở về nhà, anh sững người nhận ra cô đang ngồi chuyện trò vui vẻ với bố mẹ mình. Ôi chao, đúng là mối lương duyên! Hóa ra: “Bố tôi ngày trước với bố cô ấy là hai ông bạn chi giao bởi vậy hai ông có điều hẹn ước sẽ gả con cho nhau… Khi về, qua chặng đường đưa chân thì tình cảm giữa tôi và cô nảy nở từ đấy…”. Vào những ngày chủ nhật, thay vì về nhà, Nguyễn Minh Nhạn thường lấy cớ thăm nom, đỡ đần việc nhà cho “hai bác” cốt là để gặp “người trong mộng”. Tình yêu đúng là “động cơ đốt trong”, có lần vào mùa gặt, chỉ một loáng buổi chiều anh đã quạt hết ba nồi thóc. Tình cảm thắm thiết song hai người đều nhất trí giấu kín không “nói cho một ai hay biết kể cả người thân nhất…”. Bởi vì họ còn trẻ lắm, còn muốn phấn đấu nhiều hơn nữa trong công tác và sâu xa hơn là muốn thử thách tình cảm của nhau. Nào ai biết chỉ một chút hiểu lầm, chỉ một chút hờn giận mà không lâu trước ngày người con trai lên đường nhập ngũ họ đã man mác giận nhau… “Tôi bước chân vào bộ đội vào một ngày xuân: Ngày 28 tháng 1 năm 1966. Mùa xuân của hoa lá, của con người và cây cỏ đang nở rộ. Mùa xuân chống Mỹ, mùa xuân chiến thắng…”. Tạm biệt quê hương Dược Hạ thân thương. Tạm biệt cha mẹ, tạm biệt hai chị và em trai; Tạm biệt người quen biết và cả người chưa quen biết… “Sự bịn rịn của cảnh chia ly với những khóe mắt đầy lệ, đây là những giọt lệ của tình cảm, giọt lệ của thương yêu chứ đâu phải yếu đuối ủy mỵ… Thôi, tôi đi nhé, đi nhé!...”. Và trong đám đông người đưa tiễn, hình như có cả ánh mắt người ấy lặng thầm dõi theo…
Mới chỉ là bước huấn luyện, song Nguyễn Minh Nhạn và đồng đội đều hiểu khoác lên người bộ quân phục là bắt đầu đối mặt với gian nan và thử thách. Những buổi hành quân dã ngoại trong đêm: “Mưa như trút, mưa tầm tã… Vai vác súng, đồ mang nặng bên mình… Đi và cứ đi như thế suốt từ 1giờ 30 phút tới 7 giờ sáng mới đến nơi đóng quân… Thử thách đến nỗi vừa đến nơi chúng tôi bắt tay vào đào công sự ngay…”. Rồi những giấc ngủ chập chờn bởi “Vừa chợp mắt chợt nghe một hồi còi dài ba tiếng một, thì ra là báo động phòng không…”; Cả những hôm đào giao thông hào: “Đất cứng quá, ai lại búa chim bổ xuống đều nhảy cả lên, tóe lửa…” hay đơn giản là nỗi nhớ quê nhà, nhớ người thân đến nôn nao, bần thần… Song, đã là người lính thì phải vượt qua tất cả để “Luyện trí thành gang… ý chí sắt đá luyện thành dũng khí trong lửa đạn tương lai”. Chẳng rõ đồng đội thế nào, với riêng Nguyễn Minh Nhạn thì kim chỉ nam chính là lời nhắn nhủ của cha (khi ấy đang là cán bộ, Đảng ủy viên quân sự quân khu Tây bắc, đại biểu Hội đồng nhân dân khu Tự trị Thái- Mèo): “Đã là bộ đội chỉ biết tiến không lùi hoặc là xanh cỏ, hoặc là đỏ ngực!”.
Kết thúc huấn luyện, Nguyễn Minh Nhạn được phân công về đơn vị pháo 12ly7 và được cấp trên tin tưởng giao trọng trách làm khẩu đội trưởng. Anh đã làm rất tốt vai trò của mình nhưng mà… đời người mấy ai không mắc sai lầm? Anh cũng không ngoại lệ - dòng nhật ký như lời hối hận: “Chiều nay, trong lúc trực chiến ngoài trận địa, sau khi đồng chí số 2 cho đạn lên hộp tiếp đạn, lẽ ra thao tác thông thường cho đạn ra khỏi hộp, nhưng tôi lại kéo cò, trong lúc  không hãm cò, thành ra vừa nhấc hộp tiếp đạn ra tay trái, tôi cầm lấy tay kéo cò, thế là ôi thôi ngón tay cái vừa chạm phải cò vừa mở lên xong thì viên đạn cũng bay ra khỏi nòng súng… May mà không trúng anh nào”.
Sau khi sự việc xảy ra, Nguyễn Minh Nhạn đã khóc. Khóc không phải do sợ trách nhiệm mà khóc do ân hận, do giận bản thân thiếu cẩn trọng làm mất đi một viên đạn quí giá bởi qua những bài giảng và những bài học xương máu từ thực tiễn chiến trường “Mỗi viên đạn diệt một quân thù”. Dẫu cấp trên “không đao to búa lớn” chỉ dừng ở mức phê bình nhắc nhở trước đơn vị, song lòng anh còn day dứt mãi và tự hứa với bản thân mình: “Tôi tự hứa với lương tâm sẽ chẳng bao giờ mắc lỗi như này lần thứ hai… Tôi cần phải cố gắng hơn nữa về mọi mặt để bù đắp chỗ hỏng đó…”.
Trước khi đi chiến trường, Nguyễn Minh Nhạn nắn nót viết thật đẹp dòng chữ: “Nguyện suốt đời là một chiếc đinh không rỉ của Đảng. Xin dâng cả cuộc đời hồn nhiên, tươi trẻ nhất cho Cách mạng đến khi không còn tên cướp Mỹ nào trên Tổ quốc và quê hương tôi nữa!”. Đó cũng là dòng cuối cùng trong cuốn nhật ký.
          Nguyễn Minh Nhạn chiến đấu anh dũng và ngã xuống trên mảnh đất Lái Thiêu vào ngày 5/5/1968. Đồng đội của anh kể rằng, chuẩn bị bước vào trận đánh hôm đó, anh vừa dứt cơn sốt rét, còn chưa nuốt nổi miếng cơm, vậy mà không chịu ở lại cứ, nhất quyết vác nòng khẩu 12ly7 lên vai, cùng anh em ra trận.
          - Vậy là trước khi vào Nam chiến đấu, Nguyễn Minh Nhạn đã đem cuốn nhật ký về cho gia đình? - Tôi hỏi, anh Nhội lắc đầu:
          - Chuyển quân bí mật, anh ấy có được về nhà đâu! Cuốn nhật ký này là từ tay chị Sâm mang đến!
          - Chị Sâm? Vậy là hai người đã kịp làm lành trước lúc anh Nhạn lên đường?
Anh Nhội khẽ thở dài: “Chị ấy đến, đặt cuốn nhật ký trước di ảnh anh tôi rồi vừa khấn vái vừa khóc rất lâu. Sau đó tôi nghe chị ngậm ngùi kể với bố mẹ tôi rằng, thực lòng chị vẫn yêu anh lắm, chỉ chờ câu xin lỗi của anh Nhạn thôi nhưng anh ấy cứ lặng thinh còn chị do sự hiếu thắng lại nghĩ mình là con gái phải giữ giá, thế là chia xa… Lần cuối gặp nhau, anh hỏi bâng quơ: “Có khi nào Sâm tìm hiểu về loài chim Nhạn chưa?”.  “ Vô duyên!”- chị gắt lên rồi tức giận bỏ về... (Mãi sau này mới hay, chim Nhạn tượng trưng cho tình yêu chung thủy sắt son; Giống chim ấy khi chọn được bạn tình thì mãn kiếp không có cuộc tình thứ hai). Đến một ngày, qua bố mẹ, chị mới rõ rằng bởi sắp đi vào nơi hòn tên mũi đạn chẳng biết ngày mai thế nào, không muốn chị trở thành nàng Tô Thị nên anh chấp nhận bị hiểu lầm. Chị rất muốn được gặp anh để nói lời xin lỗi nhưng anh đâu còn trên đất Bắc. Cuốn nhật ký này anh nói với bố mẹ là nhờ chị giữ hộ, khi nào về anh sẽ xin lại. Chị đã nguyện sẽ đợi anh về nào ngờ… Nhớ anh lại đem nhật ký ra đọc. Đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Lần nào cũng khóc. Chị quyết định đem cuốn nhật ký trao lại cho gia đình tôi bởi hai lý do: Thứ nhất, biết gia đình tôi đang rất buồn vì không còn kỷ vật nào của anh để lưu lại cho con cháu mai sau; Thứ hai, nếu giữ cuốn nhật ký bên mình, chị sẽ chẳng thể nào toàn tâm toàn ý vun đắp cho hạnh phúc tương lai được. Trước lúc về, chị lại đứng trước di ảnh, chắp tay, nghẹn ngào:
“Anh ơi! Giá mà không có chiến tranh!”…
                                                                                 Minh Hằng (ghi)           
 
CHUYỆN “BÍ MẬT” Ở SÂN BAY ĐA PHÚC GẦN 50 NĂM TRƯỚC
(Ghi theo lời kể của họa sĩ Đinh Quang Tỉnh)
Họa sĩ Đinh Quang Tỉnh, nghệ danh là Ba Tỉnh, vốn là cộng tác viên thân thiết của Báo Nhân Dân từ nhiều năm. Sau triển lãm cá nhân rất thành công của ông về chân dung các văn nghệ sĩ nổi tiếng Việt Nam, một lần, ông “chat” đêm với tôi: “Tao có chuyện này buồn cười, hay lắm, nghĩ lại vẫn “kinh!”. Mà nhân chứng nhẽ cũng ra đi gần hết rồi. Chỉ còn lại tao với một ông bạn già nhớ. Lúc nào qua tao kể”.
Nhờ cậy... oái oăm!
Năm 1972, cuối thu đầu đông, khoảng tháng 10, Hà Nội bắt đầu có ngày lạnh giá. Ông Ba Tỉnh và ông Hoàng Đình Khôi (biệt danh là Khôi “đen”) đang làm việc ở Công ty thi công điện nước thuộc Sở Xây dựng Hà Nội do ông Bùi Giảo Kim, một cán bộ hoạt động nội thành cũ, vốn là dân trí thức Hà Nội, có nhiều sáng chế, làm giám đốc. Một sáng, ông Bùi Giảo Kim triệu ông Đặng Trần Hội, Trưởng phòng Kế hoạch - Kỹ thuật, ông Nguyễn Bá Lưu, kỹ sư Bách khoa khóa 1, cán bộ kỹ thuật lên phòng Giám đốc họp riêng. Chả biết bàn gì, nhưng sau đó, ông Hội về phổ biến tiếp, diện hẹp cho các ông: Nguyễn Bá Lưu, Nguyễn Văn Long, Trang Công Tiến, anh Hảo và kỹ sư Đinh Quang Tỉnh: “Các đồng chí khẩn trương sang một địa điểm ở xa Hà Nội khảo sát thiết kế nhanh một khu nhà ở, nhà tắm công cộng có nước nóng phục vụ một lúc cho nhiều khách Nhà nước”. Nghe lệnh biết vậy, thắc mắc để trong bụng, họp xong anh em kỹ thuật thước, bút, giấy lên xe đi luôn. Sang phía bắc sông Hồng, mạn Đông Anh, Phúc Yên, lần lần mới định vị một khu vực thuộc sân bay quân sự Đa Phúc (nay là sân bay quốc tế Nội Bài thuộc huyện Sóc Sơn - Hà Nội). “Vượt qua một cái barie, bên trong sân bay lúc đó trống trơn, nhìn nhanh chỉ thấy một cái máy bay. Chỉ có bãi đất, cát! Mà đòi làm nhà tắm công cộng. Tắm nước nóng!” - “Thế thì đun sao cho xuể?”. Tôi hỏi - Ông Ba Tỉnh cười bí hiểm - “Đun làm sao được? Phải làm tắm sen! Mỗi lần phải tắm được cho độ 12 người! Thế mới oái oăm!”.
Cha mẹ ơi! Hồi chiến tranh, dân Hà Nội nằm mơ cũng không dám nghĩ phòng tắm nóng lạnh! Tắm nóng sen cho cả chục người càng hoang đường. Ông Ba Tỉnh nhớ lại lô đất ở sân bay Đa Phúc mà ngán ngẩm. Đưa nước ở chỗ khác về làm sao? Đặt bơm cao áp bơm về, nối hai thùng phi đặt lên giá cao. Không ăn thua! Ác nhất là vật tư bảo ôn để quấn đường ống nước nóng, lấy đâu ra? Thiết bị vệ sinh nhiều thế, moi đâu? Trên chỉ cho năm ngày phải thi công xong. Làm thế nào?
Mệnh lệnh thời chiến được kỹ sư Hoàng Đình Khôi, vốn là lính tình báo đối không, Trung đoàn 260, sau sang Trung đoàn 290 Bộ đội phòng không, chấp hành một cách đầy hứng khởi, sáng tạo và khá... quân phiệt - “Ông Bùi Giảo Kim ra lệnh thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội - Bác sĩ Trần Duy Hưng, là Công ty thi công điện nước Hà Nội, đóng ở 59 ngõ Thông Phong phải làm công trình tắm nóng công cộng phục vụ cho đoàn tùy tùng của Kít-xinh-giơ sang Hà Nội thực hiện nhiệm vụ bí mật. Bấy giờ Hà Nội và Oa-sinh-tơn chưa có quan hệ ngoại giao, đoàn tùy tùng của Kít-xinh-giơ sẽ tự phục vụ ăn nghỉ tại chỗ trên máy bay đỗ tại sân bay, không được vào Hà Nội... Riêng chuyện tắm... nước nóng, phía Mỹ nhờ Việt Nam lo giúp!”.
Chủ tịch Hà Nội giao cho tôi một ô-tô, một lái xe, cho quyền xuống thẳng các đơn vị. Ba đơn vị được huy động gấp là Nhà máy Mì Chùa Bộc (cung cấp thiết bị vệ sinh, tắm); Nhà máy Gỗ Hà Nội (làm nhà ba gian, có khu phòng tắm công cộng cho các chuyên viên Mỹ nghỉ ngơi); Công ty Vệ sinh cấp nước ở phố Cao Bá Quát (lo huy động 10 xe téc rửa đường chở nước lên vì kéo nước về không bảo đảm). Còn Công ty thi công điện nước Hà Nội chịu trách nhiệm kỹ thuật bảo đảm đun nước nóng bằng đường ống chảy qua vòi hoa sen cho nhiều người một lúc.
Mày “giết tao à”?
Nghe ông Khôi “đen” yêu cầu Nhà máy Mỳ Hà Nội phải gấp rút tháo toàn bộ thiết bị vệ sinh, nhà tắm, đường ống, vòi sen... vốn được lắp phục vụ các chuyên gia Liên Xô ở Nhà máy Mỳ để đưa sang Đa Phúc, Giám đốc nhà máy, vốn là bạn ông Khôi kêu trời: “Mày ơi, mày giết tao à? Toàn đồ vệ sinh tốt cho chuyên gia, tháo ra hỏng thì rồi lắp lại sao?”. Mặc kệ, ông Khôi vừa an ủi bạn, rằng đó là “lệnh trên”, là “nhiệm vụ chính trị”, “đối ngoại nhà nước”, là “sự tin tưởng của cấp trên”, là “bang giao của ta với Hoa Kỳ, chuyện lớn chứ không phải nhỏ”, “Nhà máy Mỳ Chùa Bộc là con chim đầu đàn của ngành lương thực, phải chấp hành”...; vừa điều luôn ba cán bộ kỹ thuật của nhà máy Mỳ tháo gấp thiết bị, độ nửa ngày thì xong hết! Nhà xây xong. 10 xe téc nước đã lên. Điện đã kéo về. Vấn đề “chết người” chưa bao giờ làm là kỹ thuật bảo ôn quấn đường ống nóng như thế nào cho an toàn. “Làm, rồi thử, mà lần nào thò bút thử điện vào cũng đỏ rực! Kinh quá! Thế kia làm sao mà tắm! Lo mua dây may xo, tìm độ dài, công suất điện phù hợp để quấn ngoài ống. Lo “chạy” được vải amiang bảo ôn đủ quấn hết độ dài đường ống, giao kỹ sư Nguyễn Bá Lưu phụ trách việc này... “Mấy ông chắc thấy mình nhanh nhẹn, còn trẻ, chưa vướng bận gì bảo: “Đồng chí Đinh Quang Tỉnh vào thử tắm trước, xem nước nóng lạnh thế nào!” - Mình nghe cũng khiếp! Năm ấy rét. Ra sân bay Đa Phúc, ông Ba Tỉnh mặc áo bông có cổ lông. Cảm giác tắm nước nóng vòi sen, làm nóng bằng đường ống điện bảo ôn do chính tay anh em lắp ráp bằng các vật liệu “năm cha ba mẹ” trong một thời gian kỷ lục, thật lạ! - “Sướng và tự hào! Tôi nhớ, Mỹ đánh bom Hà Nội 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972 năm đó, thì phần việc của chúng tôi đã xong trước gần ba tháng!” - Ông Ba Tỉnh cười khoái chí.
Phần thưởng đặc biệt
Vậy là họ hoàn tất công trình, bàn giao cho quân đội. Ông Ba Tỉnh được ông Đặng Trần Hội khoái, thưởng cho bát phở (nhớ mùi phở đến giờ!). Chủ tịch Trần Duy Hưng tặng Bằng khen cho những người xuất sắc (ông tiếc đứt ruột bảo mấy chục năm chả ai còn giữ được). Cái khen của Chủ tịch Hà Nội là: Một công ty thi công điện nước bình thường mà “dám tay không bắt giặc”! Chả có gì mà dám nhận việc, huy động toàn lực lượng của thành phố làm! Thành phố sẽ thưởng anh em trực tiếp tham gia công trình này được nghe... một buổi nói chuyện thời sự!
Tưởng đùa, ngờ đâu, sáng hôm đó, ngay trên công trường tại sân bay Đa Phúc, chúng tôi đón một chiếc xe Von-ga đen đến. Người bước ra khỏi xe là đồng chí Lê Đức Thọ. Trên nói, đồng chí Lê Đức Thọ vừa đi dự Hội nghị Pa-ris về, biết chúng tôi vừa hoàn thành xuất sắc đúng hạn một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng liên quan đến đón đoàn Kít-xinh-giơ, nên đến nói chuyện với chúng tôi về tình hình đàm phán tại Hội nghị Pa-ris. Chuyện Mỹ, chuyện ta, chuyện Chính phủ bốn bên làm việc căng thẳng ra sao. Anh em nghe như nuốt từng lời. Hồi đó làm gì có nhiều thông tin, báo chí, phát thanh như bây giờ. Sung sướng thật chứ chả chơi, tự hào với cuộc chiến đấu ngoại giao quyết liệt của chúng ta. Câu chuyện với hơn 20 anh em cán bộ kỹ sư công nhân thế mà kéo dài gần một tiếng đồng hồ. Có chi tiết, một hôm, sau những giờ đàm phán căng thẳng, Cố vấn Kít-xinh-giơ và đồng chí Lê Đức Thọ đi bách bộ trong sân. Ánh đèn hắt bóng Kít-xinh-giơ đổ xuống đường. Kít-xinh-giơ nom thấy thế liền bảo đồng chí Lê Đức Thọ: “Ông Thọ ơi, trông tôi cao hơn ông, có phải không?”. Đồng chí Lê Đức Thọ đáp trả: “Ông chỉ dài hơn tôi thôi chứ không cao hơn”...
Nhắc đến một cử tọa đặc biệt chúng tôi ở dưới, Cố vấn Lê Đức Thọ nói: “Đây là cả quá trình Tổ quốc ta, đất nước ta chiến đấu với quân thù. Công trình nước nóng này là đóng góp của anh em cán bộ kỹ thuật, công nhân ta góp phần vào thắng lợi của Hội nghị Pa-ris...”.
Nhớ lại chuyện xưa sau gần nửa thế kỷ, ông Ba Tỉnh và ông Khôi “đen” ngậm ngùi: Nhân chứng dần “đi” cả rồi. Ông Đặng Trần Hội, Trưởng phòng mới mất ba năm nay. Ông Bùi Giảo Kim, Giám đốc cũng mất năm 93 tuổi rồi. Hồi đó là một thế hệ giỏi, hào hoa lắm! Cũng không bao giờ nghĩ mình lại là nhân chứng của một câu chuyện nhỏ trong một câu chuyện lớn. Ý chí, nghị lực, sáng tạo của người Việt mình, lạ thật!                                                                           
                                                                               Song Hà 
                                             (Bài đăng trên Báo Nhân dân ngày 09/02/2018)
 
CĂN HẦM TRÊN VÁCH ĐÁ
(Viết về CCB Nguyễn Danh Phương,
Phố Nỉ, xã Trung Giã)
Trong cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược, bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, có những người lính âm thầm lặng lẽ sát cánh cùng đồng đội chiến đấu. Chiến công của họ luôn hòa chung với chiến thắng của toàn mặt trận - một trong những con người ấy là Nguyễn Danh Phương, chiến sỹ Thông tin liên lạc Tiểu đoàn 18, Sư đoàn 356 - Quân khu 2, quê Sóc Sơn - nhân chứng trong suốt hai chiến dịch: “MB-84” và “Vây lấn” đầy máu lửa ở huyện Vị Xuyên - Hà Giang trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Và chính anh là người đã vinh dự được kết nạp Đảng ngay tại trận địa còn khét mùì thuốc súng, trong một căn hầm chật chội nằm cheo leo trên vách đá dựng đứng của cao điểm 468
Nguyễn Danh Phương sinh năm 1962 tại phố Nỉ, xã Trung Giã, huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội trong một gia đình giầu truyền thống cách mạng. Có bà nội anh là Nguyễn Thị Đón - “Mẹ Việt nam anh hùng”. Nhà có hai anh em, bố lại mất sớm nên hoàn cảnh gia đình rất neo đơn. Năm 1979, trước họa xâm lăng của quân Bành trướng phương Bắc, Nguyễn Danh Phương đã nhiều lần làm đơn xung phong nhập ngũ, mong ước được trực tiếp cầm súng đánh giặc nhưng không được vì thuộc diện hoàn cảnh gia đình khó khăn. Mãi đến tháng 02 năm 1982 nguyện vọng của anh mới được cấp trên chấp nhận. Đợt ấy anh được gọi tập trung cùng với hơn 300 thanh niên huyện Sóc Sơn, biên chế vào Tiểu đoàn 8 huấn luyện, Sư đoàn 411 thuộc Quân khu 2. Lần đầu tiên phải sống xa nhà, lại chưa quen với những quy định khắt khe của điều lệnh kỷ luật quân đội nhưng trong bức thư  đầu tay gửi về gia đình, anh vẫn tỏ ra rất cứng rắn động viên bà nội và mẹ yên tâm, gữ gìn sức khỏe và hứa sẽ luôn cố gắng phấn đấu, rèn luyện để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Kết thúc khóa huấn luyện, Nguyễn Danh Phương là một trong những chiến sỹ chấp hành kỷ luật quân đội nghiêm và có thành tích bắn đạn thật đạt loại giỏi,  được cấp trên thưởng 3 ngày phép. Đối với anh, ba ngày phép là vô cùng quý giá. Bởi lẽ, mới chỉ có hơn ba tháng thôi mà tưởng như đã mấy năm trời đằng đẵng. Vì thế sau khi nhận được tờ giấy thưởng phép là anh lập tức khoác ba lô lên đường ngay. Con đường từ Tam Đảo về Sóc Sơn quanh co dài hơn 40km mà chỉ quá trưa anh đã cuốc bộ về tới quê nhà. Niềm vui vỡ òa sung sướng gặp lại người thân để rồi sau vài chục tiếng đồng hồ anh lại bịn rịn xốc ba lô quay trở lại đơn vị. Sáng hôm sau Nguyễn Danh Phương được cấp trên gọi lên giao nhiệm vụ mới. Đó là tiếp tục đi học khóa đào tạo Thông tin VTĐ (vô tuyến điện). Vốn là một thanh niên thông minh nhanh nhẹn nên anh tiếp thu bài rất nhanh.  Kết thúc khóa học Nguyễn Danh Phương được tặng giấy khen cùng với kết quả tốt nghiệp loại giỏi, có khả năng thao tác, sử dụng thành thạo cả 3 loại máy.
Trong chỉ huy quân sự, mạng lưới Thông tin liên lạc có ý nghĩa quan trọng như mạch máu trên cơ thể. Để bảo đảm vững chắc và liên tục người ta thường sử dụng  đồng thời cả 3 mạng: vô tuyến điện, hữu tuyến điện và mạng tải ba. Tuy nhiên trên mặt trận ác liệt, địch liên tục bắn pháo, ném bom khiến cho đường dây thường hay bị đứt. Vì thế từ sở chỉ huy đến các đơn vị mặt trận, các mệnh lệnh chỉ huy chiến đấu thường được truyền đi chủ yếu thông qua mạng VTĐ (vô tuyến điện).
          Đầu năm 1984, quân Trung quốc tập trung 4 Sư đoàn bộ binh và 1 Sư đoàn pháo binh bất ngờ ồ ạt tấn công đánh chiếm một giải đất phía Tây sông Lô vào sâu tới 2km gồm các cao điểm 1509, 772, 233, 266, bình độ 300-400 và điểm cao 685 trên khu vực Vị Xuyên-Thanh Thủy thuộc tỉnh Hà Tuyên )nay là Hà Giang). Đây là một khu vực có vị trí chiến lược rất quan trọng. Từ hệ thống những điểm cao này chúng sẽ tạo thành một thế trận phòng ngự tiến công liên hoàn, trực tiếp khống chế và uy hiếp thị xã Hà Giang đồng thời sẽ khống chế cả một vùng rộng lớn phía Bắc và Đông Bắc của tỉnh. Trước tình hình đó, cuối tháng 6 năm 1984 Bộ Tư Lệnh Quân khu 2 điều Sư đoàn 356 cơ động từ Bảo Thắng về Vị Xuyên cùng với một số đơn vị bạn chuẩn bị cho chiến dịch tiến công chiếm lại các điểm cao và khôi phục lại các vị trí đã mất. Được gọi là chiến dịch “MB-84”. Trong chiến dịch này, Trung đoàn 876 thuộc Sư  đoàn 356, chỉ huy sở đặt tại bình độ 1100 của cao điểm 1509, đảm nhận hướng chính diện là tiến công đánh chiếm điểm cao 772, tiêu diệt sinh lực địch, giữ vững trận địa đồng thời tổ chức mũi thứ 2 luồn sâu, đánh vào các trận địa pháo và kho tàng của chúng, nhằm ngăn chặn chi viện của địch từ phía sau. Đây là nhiệm vụ mang một ý nghĩa sống còn đối với toàn chiến dịch nên đòi hỏi công tác đảm bảo hệ thống thông tin liên lạc phục vụ chỉ huy chiến đấu cho toàn chiến dịch là rất cao.        
Sau khi cân nhắc, cấp trên quyết định lựa chọn đích danh Nguyễn Danh Phương và điều động anh về Sở chỉ huy Trung đoàn 678 để thực hiện nhiệm vụ vô cùng khó khăn nhưng cũng hết sức vẻ vang này. Một mình Phương phụ trách liền 02 máy - Một liên lạc trực tiếp với chỉ huy cấp trên và một máy để nhận các tin thông báo về tình hình địch từ các đài quan sát đồng thời truyền đi các mệnh lệnh chiến đấu tới các đơn vị trên mặt trận.
          Khi tiếp chuyện chúng tôi, Nguyễn Danh Phương luôn tỏ ra là một người khiêm nhường. Với giọng nói sôi nổi, có lúc không giấu được vẻ xúc động, anh say sưa kể lại về những trận đánh đẫm máu, những tấm gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh quên mình của những người đồng đội trên các đỉnh D1, D2, D3 của cao điểm 772 mà không bao giờ nói về bản thân mình. 
          Chiến dịch “MB-84” diễn ra từ rạng sáng ngày 12 tháng 07  năm 1984 đến trưa thì kết thúc. Tại sở chỉ huy Trung đoàn 876, các đài thông tin liên tục phát đi tiếng của Nguyễn Danh Phương gọi các đồng đội: “D1 đâu!  D1 đâu! D1 đ…â…u...!” nhưng chỉ nghe có tiếng “ù…ù…” của chiếc máy 2W đáp lại...(?) Nước mắt anh bỗng trào ra. Một không khí đau thương, nặng nề bao trùm lên chỉ huy sở. Đại bộ phận anh em gồm toàn thể cán bộ , chiến sỹ các đơn vị tham gia tấn công trên hướng chính diện cùng với người chiến sỹ thông tin liên lạc đều hy sinh và bị thương. Các hướng tiến công điểm cao 772, 685 chỉ hoàn thành một phần nhiệm vụ. Tổn thất là rất lớn. Có thể nói, chiến dịch đã không diễn ra như mong đợi.  Tuy nhiên đánh giá về mặt thông tin liên lạc trong suốt chiến dịch thì vẫn bảo đảm được thông suốt, liên tục.
          Sau khi nghiên cứu địa hình và thực tế những bài học xương máu rút ra từ chiến dịch “MB-84”,  Bộ chỉ huy Mặt trận Vị Xuyên đã thay đổi cách đánh và quyết định mở chiến dịch “Vây lấn 1984-1985” để tấn công chiếm lại các điểm cao bằng phương pháp đào hào lấn dần, áp sát, bao vây tạo thế cài răng lược, tiến đến đâu thì xây dựng công sự vững chắc tới đó rồi tạo thời cơ tấn công tiêu diệt địch giành lại phần đất đã bị chiếm.
          Có những con người sinh ra hình như đã được lịch sử chọn lựa để gánh lấy những trọng trách trong những thời điểm đáng ghi nhớ như một mốc son không phai mờ. Lần này, Nguyễn Danh Phương lại được cấp trên tin tưởng phân công phụ trách thông tin liên lạc bảo đảm cho công việc chỉ huy chiến đâu tại Sở chỉ huy của Trung đoàn 876.  Đó là một căn hầm được tạo nên bởi những thân cây gỗ dựng chống vào sườn vách đá lõm, hơi chếch. Phía trong căn hầm chật chội và thấp nên chỉ có thể ngồi hoặc đứng khom.  Người chỉ huy và các sỹ quan trợ lý ngồi trên những chiếc thùng đạn rỗng để làm việc. Bên trên là một hốc đá dành cho chiến sỹ thông tin Nguyễn Danh Phương cùng với  các máy bộ đàm thông tin liên lạc.
Ngày 20/10/1984, chiến dịch “Vây lấn” bắt đầu. Các đơn vị lặng lẽ tiến vào chiếm lĩnh các vị trí theo kế hoạch. Đến giờ đã định, pháo binh của ta bất ngờ đồng loạt nã đạn cấp tập lên các điểm cao địch chiếm đóng buộc chúng phải co lại cố thủ, tạo điều kiện cho quân ta phát triển giao thông hào bao vây chia cắt chúng ra thành từng mảnh. Trong những ngày đầu quân ta đã áp sát và tổ chức những đợt tấn công, khiến quân địch bị bất ngờ nên chống trả yếu ớt. Phần lớn bị ta tiêu diệt, còn lại chạy trốn sang các chốt bên cạnh. Ta lần lượt giành lại được một số điểm cao. Chỉ còn duy nhất là cao điểm 772 và 685 là không thể đánh được. Vì ở đây quân địch rất đông, lại ẩn nấp trong các hang đá sâu nên tránh được các loại pháo, cối  của ta, sau đó chúng lại nhanh chóng củng cố lực lượng và tổ chức những cuộc phản công giành lại các vị trí đã mất.
Cuộc chiến đấu giằng co giữa hai bên gay go và ác liệt, giành giật nhau từng tấc đất, từng mỏm đá đã diễn ra liên tục suốt mấy tháng trời. Ở hướng E2, E5 hỏa lực địch bắn rất dữ dội. Đại đội 3 và đại đội 2 của tiểu đoàn 4 đã ngoan cường đánh bại nhiều tiểu đoàn tấn công của địch, giờ đã thương vong gần hết.
         Trong căn hầm của Sở chỉ huy Cây Nghiến một chiến sỹ thông tin đã anh dũng hy sinh. Còn lại một mình Công Đức Cường (quê Từ Liêm) đảm nhiệm 2 máy-một chiếc Silich-71 để tiếp nhận những thông tin về địch do đài quan sát Sư đoàn cung cấp, chiếc còn lại để liên lạc với Sở chỉ huy Trung đoàn và Sư đoàn do chiến sỹ Nguyễn Danh Phương trực tiếp đảm nhiệm. Địch bắn như vãi đạn vào các tảng đã, vách hào. Tốp đầu chỉ còn cách chỗ Cường khoảng 10m. Tiếng súng bắn trả của ta thưa thớt dần rồi im bặt. Lúc này Cường biết chỉ còn lại một mình. Anh quyết định điện gấp về cho Nguyễn Danh Phương ở Sở chỉ huy Trung đoàn tại cao điểm 468: “Phương Sóc Sơn! Phương Sóc Sơn! Cho gặp đồng hương Khiêm ở Từ Liêm một giây gấp gấp…”. Từ đầu bên kia trả lời: “Khiêm nghe, Khiêm nghe…” “Hãy nói với bố mẹ tao, Cường của cha mẹ gửi lời chào!” và rồi anh khẩn khoản yêu cầu Sở chỉ huy Trung đoàn lệnh cho pháo ta bắn thẳng vào vị trí anh đang đứng, nơi quân địch đang ồ ạt xông lên đánh chiếm. “Đại bàng gọi chim ưng! Đại bàng gọi chim ưng! Địch đã tràn lên 685, E5 và E2. 685 cần mưa rào gấp vào E5 và E2! Đằng nào…” Nguyễn Danh Phương chần chừ. Anh đứng lên, ngồi xuống. Âm thanh văng vẳng trong tai “Đằng nào thì tôi cũng chết. Bắn đi! Không cho chúng nó chiếm 865!”. Cổ họng anh như tắc nghẹn. Anh quyết định: “Pháo đây, pháo đây. Đã nghe đại bàng”  và anh nghẹn ngào: “Vĩnh biệt đồng đội!...” Sau nhiều giờ đạn nổ, quân ta tràn lên chiếm lại hoàn toàn bộ  cao điểm 685.
         Để tiêu diệt lực lượng địch ẩn nấp trong các hang đá, chỉ huy Sư đoàn 356 quyết định thành lập “Đội công tác đặc biệt”. Nhiệm vụ của đội là bí mật luồn sâu vào chính giữa đội hình địch bất ngờ tấn công tiêu diệt mục tiêu ở các hang này. Khả năng thương vong cho toàn đội là rất cao nên anh em trên Sở chỉ huy còn gọi là “Đội cảm tử”. Đội gồm 18 người, bao gồm những cán bộ, chiến sỹ là đảng viên và đoàn viên ưu tú được lựa chọn từ các đơn vị. trong đó có chiến sỹ Thông tin Lương Tú Liêu. Đúng 18 giờ ngày 21 tháng 12 năm 1984, “đội cảm tử” xuất phát. Đêm đông biên giới trời tối đen mù mịt, hàng quân lầm lũi di chuyển giữa hai làn pháo, vượt qua những sườn dốc đá cheo leo. 22 giờ 30 phút “đội cảm tử” đã có mặt ở vị trí tập kết. Sau khi tiêu diệt mục tiêu xong, đội nhận được lệnh từ Sở chỉ huy: “đội Cảm tử rút về vị trí xuất phát-thần tốc!”. Anh Hùng đội trưởng sực nhớ chủ trương của trên là “Tính mạng của anh em là trên hết. Nếu cần thiết, được phép vứt bỏ các trang bị, vũ khí để rút về an toàn”. Thấy cái loa của chiếc máy 2W trên lưng Lương Tú Liêu kêu oang oang, anh hô: “Vứt đi!...Rút!”. Lúc này “đội cảm tử” chỉ cách địch chưa đầy 50m, nếu địch phát hiện đội hình của ta thì khó có người nào còn sống sót trở về. Tiếng loa vẫn “rào…rào…”. Tức mình anh quát: “Vứt ngay đi! Lộ đội hình là chết bây giờ”. Lương Tú Liêu kiên quyết phản ứng lại: “Không! Còn người là còn máy” và anh quàng tay giữ ghì lấy chiếc máy 2W, lầm lũi bước đi bám sát đội hình, mặc cho sức nặng của cái máy đè xuống vai và chiếc loa vẫn thỉnh thoảng phát ra vài âm thanh trong đêm. Phía sau, những tiếng nổ vang trời, sáng rực cả một vùng rừng núi Vị Xuyên - Đó là kho vũ khí của địch bị “đội cảm tử” thiêu cháy phát nổ.
         Vào một buổi sáng khi con chim rừng chưa thức, sương mù còn phủ trắng núi rừng, Nguyễn Danh Phương được cấp trên thông báo chỉnh đốn lại tác phong, quân phục, đầu tóc gọn gàng. Lúc đầu anh chột dạ, tưởng mình mắc khuyết điểm gì nên bị cấp trên nhắc nhở. Dần dần anh thấy một vài người trên chốt xuống mang lá cờ Tổ quốc treo lên cùng với ảnh Bác Hồ và sau đó anh được mời ngồi vào đúng vị trí để chuẩn bị làm lễ kết nạp Đảng. Lúc này anh mới thở phào, trong lòng lâng lâng, tràn đầy niềm hạnh phúc.
          Lễ kết nạp Đảng dự kiến sẽ được tiến hành tranh thủ giữa hai trận đánh vào lúc 08 giờ ngày 18 tháng 3 năm 1985 nhưng do tình huống pháo địch bỗng nhiên bắn dữ dội nên phải chờ gần hai tiếng sau mới tiến hành được. Trong làn khói đạn, mùi thuốc súng khét nồng còn chưa tan hết, tại căn hầm Sở chỉ huy chật chội trên cao điểm 468 có 4 người đang quỳ, mắt nghiêm trang ngước nhìn lên lá cờ  đỏ sao vàng mang hồn núi sông Tổ quốc và ảnh Bác Hồ, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang , lắng nghe đồng chí Nguyễn Xuân Trung - Phó bí thư chi bộ, Đại đội trưởng Thông tin dõng dạc đọc quyết định kết nạp Đảng. Nguyễn Danh Phương lom khom trong tư thế ngồi-quỳ, nghiêm trang đọc lời tuyên thệ. Giọng anh rưng rưng hòa vào âm thanh của hàng chục cỡ đạn đang nổ trên các chốt.
          Lễ kết nạp Đảng trên điểm cao 468 đã in sâu vào ký ức của những người lính trên chốt như một vầng hào quang sáng mãi. Đồng chí Nguyễn Xuân Trung,  Phó bí thư Chi bộ - Người trực tiếp tổ chức lễ kết nạp Đảng hôm đó cho Nguyễn Danh Phương đã viết bài thơ: “Kết nạp Đảng trên chốt tiền tiêu” đầy xúc động: “Phía trước hầm treo cờ, treo ảnh Bác/Chi bộ tập trung/Từ các chốt về đây dự lễ/Không đứng được vì hầm thấp quá/ Tất cả đều ngồi trang nghiêm quay mặt lên cờ/Nguyễn Danh Phương dõng dạc đọc lời thề/Trước cờ Đảng nguyện trọn đời theo Đảng/Bảo vệ biên thùy, dâng trọn tuổi thanh xuân/Lễ kết nạp Đảng tuy đơn sơ giản dị/Nhưng trang nghiêm và tràn đầy dũng khí /  Mỗi Đảng viên thêm quyết tâm ý trí/Sống chết cùng nhau, nguyện giữ vững đất này”.
Ngày 9/4/1985 chiến dịch “Vây lấn” kết thúc. Sau 139 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, kiên cường, Sư  đoàn 365 đã đánh bại 2 Sư đoàn địch, diệt 1.700 tên, phá hủy và thu nhiều vũ khí, trang bị chiến tranh của địch. Trong chiến công chung đó có sự đóng góp thầm lặng, to lớn của các chiến sỹ Thông tin tiểu đoàn 18. Sau thắng lợi của chiến dịch, do có nhiều thành tích đóng góp trong rèn luyện và chiến đấu, Nguyễn Danh Phương đã được cử đi học Trường Đảng Quân khu 2. Sau này vì hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn nên tháng 2 năm 1986 anh xin phục viên về quê với quân hàm trung úy.
             Chiến tranh đã lùi xa nhưng những chiến công thầm lặng, quả cảm, oanh liệt một thời của những người lính Thông tin liên lạc trong đó có Nguyễn Danh Phương, người con của quê hương Sóc Sơn anh hùng sẽ không bao giờ mờ phai trong mỗi trái tim của các thế hệ hôm nay và mai sau.
                                                                                                     Phạm Băn Năm
                      
ĐÓN EM VỀ
(Viết về Liệt sỹ Nguyễn Hữu Nhận
xã Tiên Dược)
Cho đến hết cuộc đời, tôi vẫn chỉ có một ước ao cháy lòng… “Giá như  đêm ấy được ôm chặt em vào lòng, được cùng em ôn lại những quãng đời thơ ấu và kể lại cho em nghe những ký ức chiến trường nóng hổi để khỏa lấp những tháng ngày anh em biền biệt xa nhau...
Gia đình tôi có bảy anh chị em (ba trai, bốn gái). Anh cả, Nguyễn Văn Nuôi, nhập ngũ năm 1947, hy sinh trong kháng chiến chống Pháp năm 1952. Hiện tại hài cốt của anh vẫn nằm lại đâu đó nơi chiến trường Tây Bắc xa xôi. Em trai - Liệt sỹ Nguyễn Hữu Nhuận, hy sinh trong chiến dịch “Quế Sơn - Hiệp Đức” - mặt trận Quảng Nam. Còn tôi (Nguyễn Tân Chính), hai lần tham gia quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vì thế, nỗi nhớ về em chẳng bao giờ có thể nguôi ngoai...
Hành trình tìm em
Tháng 6 năm 1967, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, Nguyễn Hữu Nhuận cùng bao trai làng hăng hái lên đường nhập ngũ. Sau ba tháng huấn luyện, em tôi được cấp trên cử đi học lớp quân y, ra trường được điều về Trung đoàn 1, Sư đoàn 304B - Quân khu Việt Bắc nhận nhiệm vụ vào Nam chiến đấu. Nhận được tin, tôi vội sắp xếp thời gian đến đơn vị thăm em. Nhưng thật không may, anh em không gặp nhau vì đơn vị của Nhuận đang trên đường hành quân dã ngoại. Chỉ vài tuần sau, tôi cũng nhận được lệnh tái ngũ.
Bẵng đi gần ba năm bị mất liên lạc, tình cờ tháng 11 năm 1970, đơn vị tôi hành quân vào B2 (Nam Bộ), khi đi qua đất bạn Lào, gặp nhiều đơn vị, hỏi ra mới biết, đó là quân của Sư đoàn 2 (Quân khu V) mà em tôi cũng là lính Trung đoàn 31 thuộc Sư đoàn này. Những thông tin qua người đồng đội cũ của em, dù ít ỏi nhưng tôi vẫn hy vọng. Nhưng niềm hy vọng ấy mỗi lúc một “tắt dần”,  bởi suốt chặng đường hành quân qua 18 trạm giao liên của hai tỉnh Xa-va-na-khẹt và Xa-ra-van (Hạ Lào), tôi luôn tìm cách hỏi thăm về em mà vẫn bặt vô âm tín. “Có phải ông trời như muốn thử thách lòng kiên nhẫn của người lính như tôi?”.   Đó là vào một buổi chiều, đơn vị tôi hành quân về Bãi Khách của Trạm giao liên T62 nằm trên đỉnh núi. Để tới được đó, phải hành quân qua một đơn vị khác ở dưới chân đồi. Giữa lúc đó gió mùa Đông Bắc tràn về, cái rét đầu mùa như cắt da, cắt thịt, lại nghe tin bọn Mỹ vừa tập kích xuống Sơn Tây để cứu bọn giặc lái, khi đó một chiến sĩ trong đơn vị đang bị lạc phải chia nhau đi tìm trong đêm. Vừa mỏi mệt, vừa buồn bã vì thất vọng. Ngờ đâu, đơn vị ngay dưới chân đồi kia chính lại là đơn vị em tôi, hai anh em chỉ cách nhau chừng một trăm mét mà bỗng trở nên “nghìn trùng xa cách”. Ngay sau đó, tình cờ tôi gặp một số chiến sỹ lính Sư 2 đi lấy gạo, té ra họ đều là đồng đội của em tôi. Thông qua họ, biết tin em vẫn khoẻ, tôi mừng lắm, và ao ước, giá như có đôi cánh, tôi sẽ bay trở lại để thăm em, dù chỉ một lần. Đã mấy chục năm qua, mỗi khi nhớ lại chuyện này tôi vẫn cảm thấy vô cùng ân hận, nuối tiếc, xót xa và tự trách mình đã thiếu kiên nhẫn để cơ hội tuột khỏi tầm tay.
Đơn vị tôi hành quân vào B2. Trước đó nửa năm (từ 1971 - 1972), đơn vị của em rút sang Lào nghỉ ngơi, củng cố, rồi trở về trực tiếp tham gia các chiến dịch: Nông Sơn, Trung Phước, Quế Sơn, Hiệp Đức… (mặt trận Quảng Nam).
Tháng 3/1972, tôi ra Bắc nhận nhiệm vụ mới, được bố mẹ và gia đình trao lại lá thư của em viết từ chiến trường gửi ra. Trong thư em có nói đã nhận được lá thư viết vội của tôi gửi qua người đồng đội (cùng đơn vị với em) trên đường đi lấy gạo mà tôi đã gặp họ trên cao nguyên Bô-lô-ven hơn một năm về trước. Đọc thư em lòng tôi trào dâng xúc động và nuối tiếc, nỗi nhớ em càng tăng lên gấp bội.
Cuối năm 1973, tôi được đơn vị cho phục viên. Sau 5 tháng rời quân ngũ về địa phương (xã Tiên Dược). Tại Đại hội Đảng bộ, tôi được tín nhiệm bầu vào Ban Thường vụ Đảng ủy xã, sau đó về Thị trấn công tác. Kể từ đây, lại bước vào một mặt trận mới - mặt trận không tiếng súng với bao lo toan, khó khăn, vất vả nhưng không kém phần gay go, phức tạp. Đó cũng là trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương, trong đó có tôi. Trước bao công việc bộn bề, cần giải quyết, cần tập trung cao độ cho việc chung, tạm gác lại việc riêng tư để lo toan phát triển kinh tế-xã hội địa phương, chăm lo xử lý hài hòa các mối quan hệ: an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao trình độ dân trí… cho đến khi nghỉ hưu (tháng 10 năm 2001).
Cũng thời gian này, tôi nghe phong thanh qua những thông tin chắp nối: “Nhuận đã hy sinh”! Mặc dù còn bán tín, bán nghi song tôi chỉ biết âm thầm lặng lẽ mà không dám thổ lộ cùng ai, nhất là với bố mẹ lại càng phải giữ kín. Có điều làm tôi cứ ám ảnh suốt bấy lâu nay, vào dịp tháng 6 năm 1973, khi hoàn thành nhiệm vụ “trao trả nhân viên quân sự” từ Quảng Trị trở về, tôi được mẹ kể lại: tháng giêng năm Quý Sửu (1973) bà được “báo mộng” và khẳng định, nếu gặp lần nữa chắc sẽ chết. Tôi phá lên cười vì mẹ là người nhát và sợ “ma” nhất. Theo bà kể lại, hôm đó bà thấy một con đom đóm to (bằng bóng đèn) có màu đỏ chứ không xanh như đom đóm thường, bay từ ngoài sân vào trong nhà, lượn đi, lượn lại trước bàn thờ tổ tiên rồi ra đậu ở cây đào trước sân nhà, sau đó chỉ trong chớp mắt bay đi đâu không rõ? Tôi nói vui với mẹ: “Con ở Trường Sơn, đom đóm như sao sa bên suối, nó cũng to như bóng đèn đấy mẹ ạ!”. Mẹ tôi bực mình không nói nữa.
 Câu chuyện tưởng như rơi vào quên lãng, ai ngờ đúng một năm sau, tháng 6 năm 1974, gia đình nhận được giấy báo tử em tôi. Theo trong giấy báo tử, ngày hy sinh  31/12/1972. Đối chiếu ngày em hy sinh với chuyện con đom đóm mẹ kể, chỉ cách nhau hơn một tháng (đúng vào tuần tứ cửu 49 - 50 ngày mất của em). Cây đào trước sân nhà sau đó cũng héo dần (có thể do già hoặc bị sâu) nên bố tôi đã chặt đi để không còn nỗi ám ảnh trong mẹ nữa.
Là một người lính, được rèn luyện và đã từng chứng kiến cảnh nhiều đồng đội hy sinh, nhưng khi cầm tờ giấy báo tử của em, tôi không khỏi bàng hoàng, đau đớn đến tột cùng. Với cha mẹ tôi thì sự đau đớn còn tăng lên gấp bội khi lần lượt mất đi hai khúc ruột của mình. Cú sốc quá lớn cộng với nỗi đau mất mát không gì bù đắp nổi khiến mẹ ngày một kiệt sức, không sao gượng dậỵ, mắt mờ dần vì khóc nhớ con...
Sau khi mẹ qua đời vào tháng 4 năm 1985, tôi càng nung nấu ước nguyện đi đón em về để thỏa lòng mong mỏi của bố mẹ. Ý định đó ngày càng thôi thúc tôi, nhưng thông tin về em không nhiều, chỉ biết Trung đoàn 31, Sư đoàn 2, Quân khu V và thời điểm em hy sinh theo như trong giấy báo tử trùng hợp với chiến dịch “Quế Sơn - Hiệp Đức” - Quảng Nam. Tôi phán đoán, rất có thể em đã hy sinh trong chiến dịch đó. Nhưng phải bắt đầu từ đâu, thì câu hỏi này vẫn chưa có lời giải. Đang trong lúc loay hoay “tìm hướng” thì “vận may” đã đến. Tôi có người anh họ, bộ đội chống Mỹ, công tác tại cơ quan Binh vận của tỉnh Quảng Đà. Sau ngày giải phóng, anh chuyển sang ngành Thương binh - Xã hội của tỉnh (nay là Sở LĐ-TB-XH TP Đà Nẵng).
Giữa năm 1997, anh về thăm quê, tình cờ biết chuyện hy sinh của Nhuận và ý định gia đình tôi muốn đi tìm hài cốt và đón em về. Khoảng hai tháng sau, tôi nhận được tin anh thông báo: đã có manh mối về mộ phần liệt sỹ Nguyễn Hữu Nhuận tại nghĩa trang liệt sỹ xã Quế Long, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Niềm vui đến bất ngờ, chẳng mấy chốc lan tỏa rộng rãi tới toàn thể anh em họ hàng, làng xóm… Một không khí thật náo nức giống như ngày nào dân làng lưu luyến tiễn đưa thanh niên lên đường nhập ngũ và mừng vui phấn khởi đón các anh hoàn thành nghĩa vụ trở về. Bởi đã mấy chục năm qua, kể từ ngày xa cha mẹ, xa quê hương cầm súng chiến đấu, hy sinh ở nơi chiến trường xa - mấy chục năm với biết bao nỗi đau, thương xót, sự mong mỏi đến tột cùng của người thân, có lúc tưởng như vô vọng… thì giờ đây, vỡ òa trong hân hoan, như tìm thấy một báu vật. Có được thông tin chính xác, kế hoạch đi đón em về đã hình thành trong tôi. Mặc dù ở thời điểm đó, việc đưa hài cốt liệt sỹ không được thuận lợi như bây giờ.
Đêm Đông Hà
Đầu tháng 3 năm 1998, buổi tối trước ngày lên đường, anh em họ hàng, làng xóm đến chơi chật nhà, động viên thăm hỏi và chúc chuyến đi gặp nhiều may mắn. Sau khi tiễn khách ra về, tôi thắp cho em nén hương và định đi nghỉ sớm để hôm sau lên đường thì bỗng xuất hiện một con đom đóm bay từ ngoài sân vào trong nhà soi đi, soi lại trước bàn thờ tổ tiên rồi bay ra ngoài hiên lượn soi ngay trước mặt vợ tôi. Vốn là người không mê tín nên tôi cũng không để ý cho lắm. Sau này nghe vợ kể lại, tôi mới biết chuyện xảy ra: lúc ấy vợ tôi đang lẩm bẩm khấn: “Nếu có phải em Nhuận thì hãy đậu vào bên vai trái của chị. Ngày mai anh và cháu đi đón em về nhà, hãy phù hộ cho anh, chị, các cháu cùng toàn thể gia đình”. Lạ thay! Vừa dứt lời, con đom đóm liền sà đậu vào đúng vai trái vợ tôi rồi vụt bay đi trong chớp mắt.
Theo lộ trình, 5 giờ sáng hôm sau xe xuất phát, ngày đi, đêm nghỉ, trưa hôm sau chúng tôi đã tới thành phố Đà Nẵng. Buổi chiều, anh họ dẫn tôi sang Bộ Tư lệnh Quân khu V (nhà anh chỉ cách đó mấy trăm mét). Khi được xem lại toàn bộ hồ sơ liệt sỹ, phần nào tôi đã hiểu được thời điểm, hoàn cảnh và sự hy sinh của em mình. Đó là trận đánh trong chiến dịch “Quế Sơn - Hiệp Đức” vào cuối tháng 12 năm 1972 diễn ra vô cùng ác liệt giữa ta và địch tại xóm 9, xã Quế Phong, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Đơn vị em tôi đã giành chiến thắng giòn giã, làm chủ hoàn toàn trận địa, trong trận chiến đấu này, em tôi đã bị thương, được đồng đội đưa về tuyến sau cấp cứu, xong do vết thương quá nặng, em đã hy sinh tại viện 20E (Quân y tiền phương). Tôi chăm chú đọc những dòng chữ ghi rất rõ thành tích của em tôi trong hồ sơ liệt sỹ: “Sau hơn bốn năm chiến đấu, trải qua nhiều chiến dịch ác liệt, liệt sỹ Nguyễn Hữu Nhuận luôn kiên cường, dũng cảm, không chùn bước trước mọi hiểm nguy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người chiến sỹ được cấp trên tin tưởng, đồng đội yêu mến tôn vinh là chiến sĩ thi đua của Trung đoàn, được tặng thưởng Huân chương chiến công Giải phóng hạng Ba và vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng”.  Nỗi đau xót, xen lẫn niềm tự hào, kiêu hãnh có một người em xứng đáng với truyền thống gia đình, quê hương, đất nước cứ trào dâng trong tôi.
Sáng sớm hôm sau, rời khỏi thành phố Đà Nẵng, có cả người anh họ cùng đi về Quế Long, Quế Sơn, nơi em đang yên nghỉ tại nghĩa trang của xã. Được sự giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo của cấp ủy, chính quyền, nhân dân địa phương và đồng đội (cũ) của em, việc cất bốc đưa em về quê nhà diễn ra nhanh chóng, thuận lợi. Xong công việc, xe rời khỏi Quế Sơn, ra Quốc lộ 1, hướng về phía Bắc. Chiều muộn, xe về đến thị xã Đông Hà - Quảng Trị (nay là thành phố Đông Hà), tôi quyết định dừng chân và nghỉ qua đêm tại “khách sạn Công viên”. Thật ra chỉ là hai dãy nhà cấp 4 đơn sơ giống như nhà mình ở quê.
Trời đã về khuya, xong công việc, các nhân viên khách sạn đều đi nghỉ, lúc này tôi nói nhỏ với chú em họ, đưa va li hài cốt của Nguyễn Hữu Nhuận ở trong tủ ra đặt nằm bên cạnh song song với giường tôi nằm. Trằn trọc, lo âu, chỉ sợ kẻ gian bê trộm mất va li vì nghĩ là của cải tiền bạc. Nếu điều đó xảy ra thì đồng nghĩa với việc để mất em lần thứ hai và sẽ là mất em vĩnh viễn. Đêm Đông Hà khá yên tĩnh vì thị xã thành lập chưa lâu, hạ tầng kiến trúc còn khiêm tốn.
Dưới ánh sáng vàng vọt, yếu ớt của bóng đèn tròn, trong lúc mọi người ngon giấc qua mấy ngày đi đường mệt nhọc, vất vả, thì tôi cứ thao thức chập chờn, miên man suy nghĩ. Bao nhiêu chuyện xa xưa tái hiện về. Bao nỗi thăng trầm từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, nhọc nhằn, vất vả lại nghĩ về em.
Cùng cả một thế hệ lên đường đánh giặc, cũng như bao bạn bè cùng trang lứa, em “ra đi” chưa từng biết đến một tình yêu, một nụ hôn của người con gái, chưa biết đến hương vị của hạnh phúc gia đình, nước mắt tôi cứ tuôn trào ướt gối. Lúc này đây tôi muốn nghe em nói, gọi tên “ANH”, mà sao chỉ thấy lặng thinh một miền xa thẳm… Nhớ thương em - nghĩa tình “huynh-đệ”, tôi vội lấy giấy bút viết mấy vần thơ như lời tâm sự hòa quyện vào làn khói hương nghi ngút vấn vít quanh hài cốt của em: “Đón em về với quê nhà/ Dừng chân nghỉ lại Đông Hà qua đêm/ Trong phòng “Khách sạn Công Viên”/ Đã lâu có dịp anh, em “ngủ cùng”/ Âm dương cách biệt muôn trùng/ Gần em mà chẳng nói cùng được chi/ Chỉ nghe tiếng gió thầm thì/ Như hồn em cũng bay về đâu đây/ Thương em nước mắt rơi đầy/Bồi hồi nhớ lại những ngày xa xưa...”
Tiếng gà gáy đổ dồn, báo hiệu màn đêm đã qua. Trong lúc trời còn đẫm sương, tôi đánh thức mọi người dậy lên xe tiếp tục cuộc hành trình. Bởi lúc này đây, tôi, các thành viên trong đoàn và cả những người thân nơi quê nhà đang trông ngóng từng giờ để được đón em về với đất mẹ. Từ Đông Hà - Quảng Trị, xe vượt chặng đường hơn 600km, đến 20 giờ 30 đêm hôm đó em đã về tới ngôi nhà thân yêu của mình, nơi em cất tiếng khóc chào đời và nơi 31 năm em đã rời xa đi chiến đấu vì dân, vì nước. Một không khí hân hoan và xúc động trào dâng trong tình thân thương bao la không bút nào tả hết được.
Về đất Mẹ!...
Ngày em ra đi, lúc cuộc chiến đấu giữa ta và địch đang diễn ra quyết liệt. Kẻ đi, người ở diễn ra đơn giản như một lẽ thường tình bởi khi đất nước chiến tranh. Thì hôm nay, đón em trở về đất mẹ, đất nước đã thanh bình. Em trở về trong vòng tay yêu thương, chào đón của anh em, họ hàng, làng xóm, bạn bè, bằng hữu. Nếu có linh thiêng, chắc rằng cha mẹ, tổ tiên từ “trên cao” cũng thấy ấm lòng, mãn nguyện và em hẳn cũng sẽ tự hào vì đã làm tròn bổn phận của “trai thời loạn”, để hôm nay được về an nghỉ nơi đất mẹ thân thương.
Lễ đón hài cốt và truy điệu, mai táng em được diễn ra trọng thể tại nghĩa trang liệt sỹ quê nhà với sự có mặt của đại diện lãnh đạo huyện, xã, các ban, ngành, đoàn thể, bạn bè, đồng đội và nhân dân địa phương. Trong tiếng nhạc “hồn tử sỹ” trầm hùng của buổi lễ, một không khí trang nghiêm, xúc động. Mọi người như lặng đi, như lạc vào cõi linh thiêng...
Hoàn thành trọn vẹn cuộc hành trình đón em về quê nhà, tôi như được cởi mở tâm hồn, thanh thản, nhẹ nhõm bởi đã thực hiện được ước nguyện của mẹ, cha, gia đình, bè bạn. Cũng có lúc tôi tự hỏi mình, động lực nào đã giúp tôi vượt qua được khó khăn, trở ngại trước, trong và sau chuyến đi hàng tháng trời, căng thẳng đến mất ăn, mất ngủ mà vẫn đủ sức chịu đựng? Phải chăng, linh hồn em vẫn theo sát bên tôi phù hộ, chở che, tiếp cho tôi luồng sinh khí mới, hướng cho tôi những việc cần làm, để công việc “đón em về” gặp may mắn gần như tuyệt đối. Giờ đây em yên nghỉ dưới hàng cây xanh mát, nơi nghĩa trang liệt sỹ linh thiêng ấm áp, có bao người đồng đội ở bên nhau cùng nghe khúc ru của mẹ từ trong lòng đất vọng về... 
Nguyễn Tân Chính
 
ÂM DƯƠNG KÝ SỰ
(Viết về Liệt sỹ Nguyễn Công Minh, xã Phù Lỗ)
Bà Chính bần thần ngồi trước di ảnh của chồng (liệt sỹ Nguyễn Công Minh) không có tiếng khóc mà hai mắt cứ đỏ hoe, bồi hồi nhớ lại: chồng bà là người miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954. Lúc đó ông mới 25 tuổi đời mà đã có 9 tuổi quân. Hai ông bà cưới nhau từ năm 1962. Vào giữa những năm 60 của thế kỷ trước, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh và lính chư hầu vào miền Nam, Việt Nam. Ngày 01/02/1966 ông Minh được cấp trên điều động quay trở lại miền Nam để nhận nhiệm vụ đặc biệt. Bà Chính tiễn chồng ra trận khi đứa con thứ hai chưa đầy tháng tuổi.
Kẻ Bắc người Nam, chiến tranh ác liệt, thời gian nặng nề cứ chầm chậm trôi đi trong nỗi nhớ, chờ mong và lo lắng... Thế rồi cái điều không mong muốn ấy cũng đã xảy ra. Ngày 5/8/1970 bà cùng gia đình bàng hoàng nhận được tấm giấy báo tử của Cục Cán bộ, Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam báo tin: “Đồng chí Nguyễn Công Minh số hiệu 21.142, cấp bậc Đại úy, chức vụ Cán bộ nghiên cứu, đơn vị thuộc NB, quê quán xã Phước Thiền, huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa, trú quán xã Phù Lỗ, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc (nay là Sóc Sơn - Hà Nội), sinh ngày 01/12/1929, nhập ngũ ngày 27/11/1945, vào Đảng ngày 05/10/1948, đã anh dũng hy sinh ngày 15/12/1966 tại mặt trận phía Nam trong trường hợp “Vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước”.
Chồng hy sinh lúc 24 tuổi, bà Trịnh Thị Hồng Chính đau xót, hụt hẫng, bởi sự mất mát quá lớn không gì thay thế được. Biết vậy, bà vẫn lặng lẽ thờ chồng, nuôi con. Mỗi khi nhớ chồng bà lại mang thư của ông ra đọc đến nỗi thuộc từng câu, từng chữ, từng dấu chấm, dấu phảy... Hết đọc thư lại mang di ảnh của ông ra ngắm nghía, suy tư... Bức ảnh ấy, hôm nay được phóng to cho vào khung kính đặt ngay ngắn trên bàn thờ mà vẫn in dấu bao lần thấm đẫm những giọt nước mắt của bà.
Bà Chính có tên đệm: “Hồng” (Trịnh Thị Hồng Chính) là do ông Minh đặt cho bà sau ngày cưới. Ông bảo: chữ “Hồng” tượng trưng cho nét đẹp của lòng chung thủy. Trong lá thư gửi về cho bà (năm 1963) ông viết: “Anh đã tìm thấy ở em, một người phụ nữ tốt về đức hạnh, có trái tim chung thủy, rất xứng đáng là người vợ bộ đội... anh mong em luôn vững lòng tin ở anh - anh cũng thế, mãi mãi không có điều gì khác, chỉ có em, vì em là người duy nhất mang lại hạnh phúc cho anh”. Sau này bà Chính cũng lấy tên đệm “Hồng” cho hai người con trai: Nguyễn Hồng Hải và Nguyễn Hồng Hà.
Trong cuộc sống thường nhật, ngoài lao động sản xuất, nuôi con, thờ chồng, bà Chính vẫn luôn trăn trở, đau đáu một tâm nguyện là muốn đi tìm hài cốt của chồng mang về quê hương để mẹ con tiện trông nom, hương khói. Nhưng tìm ở đâu bây giờ, khi mà không có bất kỳ một manh mối gì, bởi chồng bà vốn là một sỹ quan tình báo quân đội nên từ quá trình công tác đến lúc hy sinh, mọi thông tin về ông đều không hay biết. May thay bà có người cháu ruột: Lê Anh Hào ở Hà Nội mách bảo đến gặp nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng giúp bà đi tìm hài cốt của ông.
Cầm trên tay tấm giấy báo tử và di ảnh của liệt sỹ Nguyễn Công Minh. Sau tuần hương vẽ nẻo lên trời, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cho biết: Liệt sỹ Minh hy sinh vào cuối năm1966, mộ chôn ở căn cứ Dốc Mơ trong vườn cây, cạnh một khe nước, nơi đây trước kia là căn cứ của Ban Chính trị miền (gọi là R). Hiện nay mộ phần đã được quy tập vào nghĩa trang liệt sỹ Thủ Đức, nằm ở hàng mộ chưa xác định được danh tính. Bà Hằng khẳng định: trước lúc chôn cất liệt sỹ Minh cùng 2 liệt sỹ nữa ở địa điểm ban đầu (Dốc Mơ), thì khu vườn này đã có 4 ngôi mộ của gia đình bà Út Em - Tăng Nhơn Phú (còn gọi là nghĩa địa gia đình). Nghe nhà ngoại cảm phán, bà Chính có chút manh mối để nuôi hy vọng và quyết định đi tìm hài cốt của chồng. Bà Chính ủy quyền cho tôi (Lê Kim Sơn - em rể), trước đây là bộ đội ở chiến trường miền Nam cùng các con của bà đi tìm hài cốt ông Minh.
Máy bay hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, trời đêm Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ ánh điện, nhộn nhịp người xe. Ba chú cháu tôi xác định điểm đến đầu tiên sẽ là nhà ông Tư, họ hàng nội tộc với liệt sĩ Nguyễn Công Minh, ông Tư sống ở Sài Gòn từ năm 1956. Gặp đoàn ngoài Bắc vô, ông Tư vui mừng khôn xiết, nhớ kỉ niệm xa xưa: “Thuở nhỏ ông Minh tên là Nguyễn Văn  Ấm, hai anh em tôi hay rủ nhau đi bắt dế ở bãi ngô. Từ đó đến nay tôi không biết gì về tin tức của ông ấy. Hôm nay thật là hạnh phúc”. Có lẽ vì nhiệm vụ đặc biệt nên khi vào bộ đội, Nguyễn Văn Ấm được đổi tên là Nguyễn Công Minh (tôi đoán vậy). Sáng hôm sau, chúng tôi đến quận Thủ Đức để xác minh về độ chính xác của nhà ngoại cảm và cũng đặt ra nhiều câu hỏi: Dốc Mơ là địa danh thực hay ảo? Bà Út Em là ai? Căn cứ của Ban Chính trị miền (R) có đúng không? những ngôi mộ đất không ghi danh ở trong vườn nhà bà Út Em sau nửa thế kỷ có còn hay đã chuyển vào nghĩa trang Thủ Đức? Tất cả những thông tin này tuy chỉ là phỏng đoán nhưng cũng rất quan trọng cho chuyến đi này.
Tới nghĩa trang liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh, được ông Trần Xuân Hòa, người trông coi nghĩa trang cho biết, tại khu M28 - nơi yên nghỉ của 2.500 liệt sĩ vô danh. Mỗi khi đến đây thăm viếng, hầu hết các bác Cựu chiến binh đều có kiến nghị: Các liệt sỹ nằm ở đây, lúc còn trẻ họ đều có danh cả. Người còn sống được hưởng thái bình chưa trả lại danh cho anh em đồng đội, đó vừa là món nợ, vừa là trách nhiệm của tất cả chúng ta. Trong lúc chờ có ngân hàng gien ADN để xác định thì nay trên tấm bia liệt sỹ đã được tạc lại rõ hàng chữ: “Liệt sỹ chưa xác định được tên”. Theo sự hướng dẫn của người quản trang, chúng tôi tới đồi không tên: khu M28, nằm trên lưng chừng dốc, có những ngôi mộ vẫn chưa xác định được tên từ nghĩa trang Thủ Đức chuyển về. Dừng lại ở bông 4, hàng 174 (mỗi bông, tức mỗi hàng có 8 mộ quây hình tròn, tạo thành 8 cánh hoa mai. Tôi hiểu ra ngay, đây là biểu tượng của chiến thuật đánh “nở hoa trong lòng địch” của quân đội ta.
Vừa đi, vừa nghe và quan sát theo sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm: Liệt sĩ bao nhiêu tuổi thì thắp chừng ấy nén hương. Đứng trước mộ phần bông 4, hàng 174 (trùng với mô tả của bà Phan Thị Bích Hằng), tự nhiên chúng tôi thấy thiện cảm khác thường. Thủ lễ xong, tôi chắp tay thành tâm khấn vái... Thật lạ kỳ lời khấn của tôi vừa dứt chừng 2 đến 3 phút, thì toàn bộ những nén nhang đang thắp tự nhiên gặp luồng gió xoáy, cháy bùng lên thành ngọn lửa dưới trời mưa nặng hạt - phải chăng đó là linh ứng giữa nggười âm gặp người dương như người đời thường nói “hóa chân hương”?
Chúng tôi tiếp tục đến phường Tăng Nhơn Phú B, tìm đến gia đình bà Bảy Lũng, bà Út Em để xác minh cụ thể. Các bà đều ở trong nhóm cán bộ giao liên ngày trước. Bà Út Em nay 83 tuổi nhưng vẫn khỏe và minh mẫn, kể lại: Vào  năm 1966, mảnh đất này ác liệt lắm. Lúc đó, ông Nguyễn Công Minh, cấp bậc Đại úy, chức vụ cán bộ nghiên cứu thuộc đơn vị NB, Cục II (nay là Tổng cục II - Bộ Quốc phòng), hoạt động ở cánh 4 Quân báo, thuộc các vùng Củ Chi - Hóc Môn - An Phú Đông - Tăng Nhơn Phú. 
Bị thất bại nặng nề ở “đất thép” Củ Chi, bọn Mỹ, Ngụy đã thực hiện chiến dịch “Bóc vỏ trái đất”, dùng nhiều xe tăng thiết giáp cày nát cả một vùng rộng lớn mà chúng cho là ở dưới lòng đất có quân Cộng sản. Và ông Minh cùng một số đồng chí khác đã hy sinh tại mảnh đất này vào thời điểm đó. Bà Út Em khẳng định: Hồi 16 tuổi, tui làm giao liên cho cách mạng, các ảnh thường về ban đêm nên không rõ mặt người, song lại biết rất rõ vườn nhà mình chôn cất các anh chiến sỹ cách mạng là đúng một trăm phần trăm, nhưng không biết tên từng người vì mộ không có bia. Còn mộ của gia đình bà đều có bia, có dấu riêng nên không lẫn vào đâu được. Qua nhiều lần di chuyển, nay hài cốt của các anh được yên nghỉ tại đồi không tên nghĩa trang liệt sỹ Thành phố Hồ Chí Minh, được Đảng - Nhà nước - Nhân dân tôn thờ: “Trọn đời vì dân, hồn thiêng vẫn sống/ Dâng lòng cho nước, nghĩa lớn còn lưu”.                                                                                
Theo như lời bà Út Em, thì sau giải phóng, mộ các anh đã được bốc về nghĩa trang liệt sỹ Thủ Đức, sau đó lại quy tập về nghĩa trang TP. Hồ Chí Minh. Độ chính xác lại càng có tính thuyết phục hơn khi chúng tôi được gặp và trực tiếp làm việc với Phòng LĐ - TB - XH quận Thủ Đức, quận 9, các Ban quản trang thành phố, quận, UBND phường Tăng Nhơn Phú, Ban quản lý đền Bến Dược (Củ Chi - Hóc Môn) và 12 nhân chứng đã cung cấp nhiều chi tiết quan trọng xung quanh về liệt sỹ Nguyễn Công Minh.
Trong suốt thời gian đi tìm hài cốt liệt sỹ, có lúc lóe vụt tia hy vọng, có lúc nặng nề bế tắc, nhưng nhờ có sự giúp đỡ tận tình của lãnh đạo, chính quyền, cơ quan đoàn thể, đơn vị, cùng bà con cô bác địa phương, cộng với lòng kiên nhẫn, tự tin. Lễ nhận mộ gắn bia được tiến hành trang nghiêm vào hồi 18 giờ 10 phút, ngày 27/7/2009, trên bia đá xanh đen khắc nổi bật toàn văn nội dung như trong giấy báo tử, với sự kính cẩn nghiêng mình của mọi người trước anh linh các Anh hùng liệt sỹ nói chung và liệt sỹ - sĩ quan tình báo quân đội Nguyễn Công Minh nói riêng. Lễ nhận mộ vừa xong, trời bỗng đổ mưa, kèm theo sấm chớp... Trước mộ liệt sỹ Nguyễn Công Minh, tôi chắp tay thành kính: “Anh Minh ơi! Có phải anh sống khôn thác thiêng! Sau 43 năm nằm sâu trong lòng đất mẹ, hôm nay anh đã được gặp lại người con trai cả Nguyễn Hồng Hải, cháu đã trưởng thành và cả cháu Đoàn Thị Hạnh, người con dâu út hiếu thảo của anh”.
Thắp hương lên bàn thờ, bà Chính khấn thầm, giọng thủ thỉ như một lời tâm sự với chồng về niềm tin của bà trong việc tìm thấy hài cốt của ông. Nhưng để chắc chắn, trước khi đón ông về, bà xin phép ông một việc, đó là phải nhờ vào khoa học hiện đại xác định lại một lần nữa. Bà lấy đồng tiền căng bỏ vào đĩa xin âm dương, được ông đồng ý. Các con của bà lại vượt đường xa vào thăm mộ bố, thăm họ hàng trong Nam và mang theo cả hồ sơ của Phòng Chính sách Tổng cục II - Bộ Quốc phòng để làm thủ tục cần thiết cho việc lấy mẫu hài cốt liệt sỹ Nguyễn Công Minh, phục vụ cho công việc xét nghiệm ADN. Và chỉ trong thời gian ngắn, chiều ngày 21/12/2013, gia đình bà Chính được mời về dự lễ trao kết quả giám định gien AND cho các gia đình liệt sĩ đợt 21 tổ chức tại Hà Nội do Trung tướng Lê Văn Hân, Chủ tịch Hội hỗ trợ các gia đình liệt sỹ Việt Nam trực tiếp trao kết quả giám định gien ADN cho 21 gia đình liệt sĩ đã xác định được danh tính, nhân kỉ niệm 69 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/2013) trong đó có gia đình bà.
Để vợ được gần chồng, con gần cha, cháu gần ông và thường xuyên trông nom, hương khói, phụng thờ, tháng 12/2015 bà Chính cùng con cháu nhất tâm đi đón hài cốt ông về nghĩa trang quê nhà, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn - thành phố Hà Nội. Bên mộ chồng, bà cung thỉnh anh linh kính nghĩ: “Tình gia đình nội ngoại bao la. Nghĩa vợ chồng kết tóc xe tơ. Âm - dương cách trở không gian hai ngàn cây số, thời gian nửa thế kỷ trôi qua, đau đớn thay tên còn, người mất, mênh mông trần thế, đậm tình con cháu, đằng đẵng tháng năm dài khôn nguôi nhắc nhở, chỉ thấy phảng phất hồn mây. Nay đến tận nơi xin đón anh về gần vợ, con gia đình các cháu. Nghĩa trang liệt sỹ xã Phù Lỗ yêu dấu, ấy là nơi anh an nghỉ ngàn thu. Cung thỉnh anh linh các liệt sĩ có tên và chưa xác định được tên hết lòng chia sẻ, chia tay đồng đội, nghĩa chung đất mẹ Việt Nam”. 
Dưới cánh bay là những tán rừng mù sương, lớp lớp mây trắng trôi bồng bềnh trên không trung khiến tâm trạng bà Chính càng mông lung khó tả, không nói thành lời, không nghe thấy bà khóc, chỉ có tiếng nấc, hai vai rung lên, mỗi lần như thế bà lại ôm chặt hài cốt ông Minh vào lòng. Nhưng rồi bà lại lau nước mắt tự an ủi mình, ông Minh chồng bà ra đi vì nghĩa lớn, lúc nằm xuống còn có người đắp mộ hương khói thờ cúng. Nghĩ vậy, bà không khỏi chạnh lòng, tưởng nhớ hàng ngàn các vong hồn liệt sỹ chưa xác định được danh tính. Trải bao tuế nguyệt phong sương, rồi những khi nắng sớm mưa chiều hay những đêm trường trăng mờ sương lạnh... Giờ phút này đây họ đang phiêu bạt ở nơi đâu? Trong rừng sâu hay dưới dòng sông ngàn năm sóng vỗ. Giữa phố phường đang tái thiết hay trong nương lúa bát ngát xanh màu. Trên đỉnh non cao hay phiêu diêu tận cuối chân trời xa lạ? Tự nhiên bà thốt lên: “Ôi! Chiến tranh thật là tàn khốc”!
                  Lê Kim Sơn
                                                        
 TRẢ ƠN CUỘC ĐỜI
(Viết về CCB Nguyễn Trọng Nhỉ, xã Phù Lỗ)
Mặc người thân can ngăn, người đời đàm tiếu…, trong suốt hơn 40 năm qua, kể từ khi đế quốc Mỹ dùng máy bay B52 ném bom xuống Hà Nội (tháng 12-1972) đến nay, dù đã bước sang tuổi gần 80, nhưng ông vẫn lặng thầm đi “săn tìm” những trái bom chưa nổ, vì một lý do đơn giản “để trả ơn cuộc đời”.  Ông là cựu chiến binh (CCB) Nguyễn Trọng Nhỉ, thôn Tây Đoài xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
“Trong cuộc sống, mỗi con người đều có nỗi niềm của mình, riêng đối với tôi, cái chết của đồng đội và nhân dân do bom Mỹ giết hại luôn là nỗi ám ảnh suốt cuộc đời…” - ông Nguyễn Trọng Nhỉ bắt đầu câu chuyện như thế.
Năm 1960, Nguyễn Trọng Nhỉ lên đường nhập ngũ và được điều về Đại đội 17 công binh, thuộc Trung đoàn 165, Sư đoàn 312. Trong suốt 3 năm quân ngũ, ông được học tập, huấn luyện chuyên ngành công binh. Cuối khóa, qua kiểm tra sát hạch rà phá bom mìn, Nguyễn Trọng Nhỉ đạt loại xuất sắc, được cấp trên khen thưởng và đưa vào nguồn đối tượng Đảng. Năm 1963, ông phục viên, đầu năm 1967 lại tái ngũ vào Đại đội 14, Trung đoàn 246, Sư đoàn 304B (Quân khu Việt Bắc). Sau một tuần huấn luyện, đơn vị ông nhận lệnh hành quân gấp vào Nam chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị.
Cho đến tận bây giờ, ông vẫn còn nhớ như in những ngày Tết Mậu Thân 1968. Đêm mùng 6 rạng sáng 07/02/1968, Đại đội 14 (cối 82) của ông, cùng các đơn vị bạn đã “san bằng” cứ điểm Làng Vây, tiêu diệt gần 1000 tên dịch. Bị thất bại nặng nề, quân Mỹ huy động hàng trăm lượt B52 ném bom tại khu vực Khe Sanh. Cả cánh rừng tươi tốt bỗng chốc tan hoang, quân số của đơn vị thiệt hại nghiêm trọng. Chờ tới khi màn đêm buông xuống, Nguyễn Trọng Nhỉ đi thu lượm xác đồng đội bị bom Mỹ giết hại trong lúc đang trên đường đi lấy gạo. Ngồi trong hầm trông coi 6 thi thể đồng chí thân yêu của mình, Nguyễn Trọng Nhỉ khóc khô cả nước mắt, bởi lẽ, theo kế hoạch, sáng hôm đó ông được phân công đi lấy gạo, nhưng vì đột xuất nên đã có người khác thay thế, nhờ vậy mà ông may mắn được sống sót - “Món nợ này không biết đến bao giờ tôi mới trả được” - ông tâm sự.
Lòng căm thù giặc đã được Nguyễn Trọng Nhỉ dồn lên nòng súng và ông đã lập nhiều thành tích xuất sắc trong chiến đấu. Do hoàn cảnh gia đình, năm 1971 ông được phục viên về quê và được Đảng ủy xã Phù Lỗ phân công làm Xã đội phó.
Khi được hỏi về thành tích phá bom nổ chậm ở quê, ông Nhỉ cười khiêm tốn: “Chuyện của tôi chẳng có gì đáng nói nếu như không xảy ra sự kiện 12 ngày đêm năm 1972 khi đế quốc Mỹ tập kích bằng B52 vào Thủ đô Hà Nội”.
Đầu tháng 11-1972, khi đó ông Nhỉ đang là Xã đội phó, được cấp trên phổ biến tình hình: Khả năng đế quốc Mỹ sẽ dùng B52 đánh vào Hà Nội, khu vực sân bay quân sự Đa Phúc (nay là Sân bay quốc tế Nội Bài), cùng các xã lân cận sẽ lân cận sẽ là trọng điểm oanh tạc ác liệt của không quân Mỹ.
Khoảng 21 giờ, ngày 18/12/1972, sau khi đi kiểm tra ở các tổ dân quân về, bỗng nhiên ông Nhỉ nghe thấy trên không trung tiếng động cơ ầm ầm rền vang như sấm. Theo kinh nghiệm chiến trường, ông biết đó là tiếng B52. Ngay sau đó, trong ánh chớp chói lòa, một tiếng nổ rung trời chuyển đất ở phía Tây thôn Tây Đoài, chỉ cách nhà ông chừng 500m. “B52 đã ném bom rải thảm, nhưng tại sao chỉ nổ có một quả?” - một ý nghĩ thoáng trong đầu và như linh tính báo cho ông biết, trong đợt bom rải thảm vừa rồi, ít nhất cũng phải có vài chục quả chưa nổ. Đúng như dự đoán của ông, 10 giờ ngày 19/12, ông được cấp trên giao nhiệm vụ đi kiểm tra số bom chưa nổ. Ông đã dùng thước đo từng lỗ bom nổ chậm, có lỗ đường kính tới 90cm. Tất cả tình trạng bom rơi, cự ly khoảng cách của từng trái bom chưa nổ đều được ông vẽ sơ đồ và ghi chép đầy đủ, tỉ mỉ, cụ thể. Tổng số có 26 quả bom rơi xuống địa bàn xã Phù Lỗ, trong đó có 17 quả ở khu dân cư và 9 quả ở ven làng. Thấy ông là người có chuyên môn và kinh nghiệm rà phá bom mìn, năm 1973, Nguyễn Trọng Nhỉ được cấp trên giao nhiệm vụ chỉ huy 5 trung đội dân quân tiến hành đào bới và “lôi” lên khỏi mặt đất được 7 quả bom Mỹ loại 750 bảng Anh, trong đó ông trực tiếp tháo gỡ, vô hiệu hóa được 4 quả. Thán phục trước tinh thần dũng cảm và trình độ phá bom của ông, mọi người gọi ông Nguyễn Trọng Nhỉ là “thợ săn bom nổ chậm”.
Sáng nay tôi nhận được cú điện thoại từ đầu dây bên kia, giọng nói của ông Nguyễn Trọng Nhỉ như reo lên trong máy: “Hôm nay có cán bộ của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội về làm việc với các hộ gia đình trong thôn có bom còn sót lại trên đất nhà mình!”.
Tôi hiểu, đó cũng là niềm vui lớn đối với ông, bởi lẽ, đã mấy chục năm qua, đất nước được sống trong cảnh hòa bình, đời sống của nhân dân mỗi ngày một khá giả, tốc độ đô thị hóa ngày càng phát triển, riêng thôn Tây Đoài (Phù Lỗ) đã có hơn 70% số hộ gia đình xây được nhà cao tầng kiên cố. Nhưng trong thâm tâm ông lúc nào cũng như bị cắn rứt, bởi dưới lòng đất quê ông vẫn còn không ít những những quả bom chưa nổ, nó là những hiểm họa khôn lường đang rình rập tính mạng và tài sản của người dân. Chính vì thế, đã nhiều lần ông đề nghị các cấp có thẩm quyền có kế hoạch xử lý 19 quả bom nổ chậm còn sót lại để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho nhân dân. Mặc dù ông là “bằng chứng sống” về độ tin cậy của những thông tin nói trên, nhưng không phải ai cũng đồng tình với đề nghị đó của ông. Người thân trong gia đình thì phản đối, can ngăn ông không nên theo đuổi công việc nguy hiểm đó. Có cán bộ vỗ vai khuyên khéo: “Ông có tuổi rồi, dành thời gian để nghỉ ngơi cho khỏe, việc giải quyết hậu quả sau chiến tranh đã có Nhà nước lo”. Thậm chí có người còn “gọi mát” ông là “Ba Nhỉ” (nghĩa là Nhỉ hâm, Nhỉ gàn, Nhỉ dở). Vì theo họ, “cuộc sống đang yên lành, nhà cửa đã xây dựng khang trang bề thế, tự nhiên lại đào bới lên làm gì? Có bom nằm dưới đó thì đã làm sao?”; hoặc “trong lúc giá đất đang lên cơn sốt, lại nói có bom chưa nổ bên dưới thì ma nào nó mua…”.
Bỏ ngoài tai những lời đàm tiếu, Nguyễn Trọng Nhỉ vẫn quyết tâm theo đuổi mục đích của mình. Ông bảo: “Không ai hiểu hết bản thân mình bằng chính mình”. Nhất là khi được chứng kiến cảnh đau thương tang tóc ở một làng quê trong huyện, thôn Ninh Kiều, xã Tân Dân, vốn là ngôi làng cổ có từ 400 năm nay. Vậy mà chỉ trong chốc lát, ngày 28/12/1972, máy bay B52 của giặc Mỹ đã trút xuống nơi đây gần 200 quả bom tấn, san phẳng toàn bộ 148 ngôi nhà, hàng trăm người chết và bị thương... Kể từ  đó, ngày 28/12 hằng năm đã trở thành ngày "giỗ trận" của làng. Ông quả quyết: khi nào còn những quả bom chưa nổ vẫn nằm ở dưới lòng đất thì tính mạng của người dân còn bị đe dọa. Vì thế ông tiếp tục đề nghị lên huyện, thành phố và cả Trung ương về việc “săn tìm”, hủy bom nổ chậm. Đề nghị của ông đã được các cấp cơ quan chấp thuận. Bộ Tư lệnh Công binh đã chỉ đạo Phòng Công binh Quân khu Thủ đô (nay là Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội) cùng cơ quan quân sự huyện Sóc Sơn mời ông lên UBND xã Phù Lỗ làm việc. Ông Nhỉ đã làm rõ tọa độ và hướng rơi của bom từ phía tây (sân bay Đa Phúc) sang phía đông (thôn Tây Đoài,  xã Phù Lỗ). Tuy nhiên, lực lượng công binh cho máy về dò, nhưng không có kết quả, nguyên nhân chính theo ông vì máy dò không thể “với” tới độ sâu của bom (có quả sâu tới 7m) và độ xiên của bom khi rơi đã làm lệch vài ba mét so với miệng lỗ trên mặt đất…
Quyết không chịu bó tay, máy không thấy thì ông dùng thuốn và đã phát hiện thấy bom ở khá sâu, tiếp tục đào thêm được 11 quả và 1 quả bị nổ om.
Câu chuyện cảm động của Cựu chiến binh Nguyễn Trọng Nhỉ đã được Ban Tuyên giáo Trung ương giới thiệu, tôn vinh “Tấm gương bình dị mà cao quý” - Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Ông là người Cựu chiến binh dám nghĩ, dám làm, dốc lòng, dốc sức vì lợi ích của cộng đồng, vì sự bình yên và phồn vinh của quê hương, đất nước.                                                                            
                                                                               Ngô Văn Học                                                                                                                                                                                          
QUẬT CƯỜNG TINH THẦN SÓC SƠN
 
       Thực hiện Lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chính phủ: “Mỗi công dân phải là một chiến sĩ kiên cường chống Mỹ, cứu nước. Mỗi xí nghiệp, công trường, nông trường, hợp tác xã, cơ quan, trường học, đường phố phải là một chiến hào sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi hành động phiêu lưu quân sự của giặc Mỹ và tay sai”, quân dân huyện Đa Phúc - Kim Anh (nay là huyện Sóc Sơn - Hà Nội) bước vào trận chiến đấu trong 12 ngày đêm lịch sử tháng 12/1972 với tinh thần quật cường, dũng cảm, đoàn kết và sáng tạo.
      Bình tĩnh vào trận chiến đấu mới
       Tháng 12/1972, tình hình khẩn cấp, các cơ quan đầu não của huyện và một số ngành dịch vụ, thương nghiệp, lương thực, thực phẩm đã sơ tán về các xã. Trên địa bàn huyện được chia thành các cụm chiến đấu liên hợp, mỗi cụm do đồng chí Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo, Huyện ủy viên phụ trách xã. Các trung đội cơ động có trang bị hỏa lực mạnh được thành lập, lực lượng vũ trang địa phương tiếp tục được củng cố. Các xã thành lập trung đội mạnh, dân quân tự vệ, Công an nhân dân nhanh chóng huy động phối hợp với bộ đội, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các trận địa tên lửa, pháo cao xạ 100 ly của bộ đội chủ lực cùng 43 đài quan sát, 37 trận địa của dân quân tự vệ hoạt động tích cực, sẵn sàng giáng trả máy bay địch những đòn đích đáng.
       Công tác phòng tránh được triển khai khẩn trương. Nghị quyết của Huyện ủy nhấn mạnh: Phải tổ chức phòng tránh cho tốt, bảo đảm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản của nhân dân. Toàn huyện đã sửa chữa 2.734 hầm gia đình, 14.375 hố cá nhân, 6.745m hào giao thông. Các đội cứu thương, cứu sập, cứu hỏa chỉnh đốn lại đội ngũ. Tất cả bình tĩnh vào trận chiến đấu mới, dự báo sẽ quyết liệt hơn nhiều lần.
       Ngày 30/11/1972, Tỉnh ủy và Ủy ban Hành chính tỉnh Vĩnh Phú họp phân tích tình hình và ra nghị quyết về phòng không sơ tán, tổ chức đánh địch, chia lửa với quân và dân Thủ đô. Ngay sau đó, Huyện ủy Đa Phúc - Kim Anh chỉ đạo nhân dân sơ tán, phân tán triệt để, đặc biệt là trường học, bệnh viện, một lần nữa lại về sau lũy tre làng, làm nhà nửa nổi, nửa chìm bên những hầm kèo và giao thông hào. Ở các khu vực trọng điểm như: Sân bay, các trận địa, nút giao thông… được chỉ đạo khẩn trương sửa sang hầm hố trú tránh; kiểm tra và bổ sung cơ số thuốc men, dụng cụ cho các đội cứu thương, cứu sập, bảo đảm giao thông, tăng cường tuần tra bám sát địa bàn, giữ vững trật tự trị an; lực lượng dân quân tự vệ luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.
       Trên khắp địa bàn huyện, bên những trận địa pháo, các bà, các mẹ khi thì bát nước chè xanh, khi thì củ khoai, củ sắn… động viên các chiến sĩ vững tay súng, sẵn sàng chiến đấu với không quân Mỹ. Các cháu thiếu nhi hồ hởi với phong trào thu nhặt giẻ lau tận dụng từ quần áo cũ, giặt sạch, phơi khô gửi các chiến sĩ lau súng. Hội Phụ nữ sôi nổi với phong trào “Ba sẵn sàng”. Trong suốt 12 ngày đêm lịch sử ấy, các chị luôn có mặt tại các trận địa cùng với bộ đội thu dọn chiến trường, mang vác vũ khí, tải đạn, động viên tinh thần chiến đấu bằng những lời ca tiếng hát; sẵn sàng băng bó, cáng thương…
       Sức mạnh của ý chí và tinh thần đoàn kết
       19h15 ngày 18/12/1972, máy bay B.52 rải thảm 572 quả bom xuống khu vực sân bay và các xã phụ cận. Trong trận này, chiếc máy bay B.52 đầu tiên của giặc Mỹ bị tên lửa và pháo phòng không của quân và dân Hà Nội bắn rơi. Xác máy bay rơi ở cánh đồng Trời và cánh đồng Bài, thuộc xã Phù Lỗ, một phần rơi tại cánh đồng Bãi Ái, xóm Trung, xã Đức Hòa.
       Chiều 19/12/1972, đồng chí Phùng Thế Tài, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam về thăm ghi nhận và biểu dương công tác hiệp đồng tác chiến của quân dân huyện Sóc Sơn. Xác chiếc máy bay B.52 sau đó được bàn giao cho Bộ Quốc phòng (hiện nay được trưng bày tại Bảo tàng Chiến thắng B.52).
       Trong cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 suốt 12 ngày đêm của đế quốc Mỹ, ngày nào chúng cũng đánh phá huyện Sóc Sơn, gây thiệt hại, mất mát to lớn về người và của cho nhân dân Sóc Sơn. Huyện ủy, UBND huyện phát động phong trào quyên góp ủng hộ những địa phương và gia đình bị nạn theo phương châm “lá lành đùm lá rách” cùng với sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của Đảng bộ và nhân dân các huyện bạn, như: Yên Lạc, Bình Xuyên, Yên Lãng, Tam Dương, Lập Thạch đã giúp đỡ tre, nứa, rơm rạ, lá cọ, ngày công, sửa chữa, xây dựng lại nhà cửa cho những gia đình bị nạn và không quên lo gạo nếp, đậu xanh, bánh chưng tình nghĩa giúp gia đình bị nạn được đón xuân mới... Trường học, bệnh viện, cửa hàng được sửa chữa những chỗ thiệt hại để tiếp tục trở lại hoạt động. Có thể nói, trong gian nan, đau thương, mất mát do tội ác quân thù, chính sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, chia ngọt sẻ bùi của nhân dân lại bùng lên sức mạnh mới, tiếp sức cho đồng bào nơi bị chiến tranh tàn phá vươn lên và chiến thắng.
       Không chỉ anh dũng trong chiến đấu, nhân dân Đa Phúc - Kim Anh còn thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong phục vụ chiến đấu, bảo đảm thông suốt giao thông, giải quyết hậu quả sau mỗi trận đánh. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, Đa Phúc đã huy động 1.333 dân quân du kích, Kim Anh đóng góp 152.507 ngày công, Xí nghiệp gạch Xuân Hòa dùng xe cơ giới cùng với người lao động cùng nhau ngày đêm sửa chữa sân bay. Ở các quốc lộ số 2, số 3, nhân dân khẩn trương lấp những hố bom nhằm bảo đảm giao thông thông suốt.
       Trong cả cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nói chung, trong chiến tranh phá hoại của Mỹ nói riêng, Sóc Sơn đã đón tiếp hàng trăm lượt cơ quan, đơn vị, trường học, hàng nghìn lượt đồng bào về đóng quân, sơ tán. Cán bộ, đảng viên, nhân dân huyện không ngần ngại nhường trụ sở, nhà cửa, đồ dùng, ruộng vườn… cho các cơ quan, đơn vị, đồng bào có địa điểm đóng quân, ổn định cuộc sống. Huyện Sóc Sơn là nơi đơn vị không quân chủ lực đầu tiên, cái nôi của không quân nhân dân Việt Nam - Sư đoàn 371 đóng quân và đã vinh dự hai lần được đón Bác Hồ về thăm, động viên nhân dân trong huyện và Trung đoàn không quân 921, Sư đoàn 371, vào năm 1967 và năm 1969.
       Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, huyện Kim Anh, Sóc Sơn và 18 xã của huyện đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: "Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân"./.
                                                             Bài đăng trên báo Hà Nội mới
LÀNG “GIỖ TRẬN” HÔM NAY
Thôn Ninh Kiều, xã Tân Dân, vốn là ngôi làng cổ 400 năm. Vậy mà chỉ trong chốc lát, ngày 28/12/1972, máy bay B.52 của giặc Mỹ trút xuống nơi đây gần 200 quả bom tấn, san phẳng toàn bộ 148 ngôi nhà, hàng trăm người chết và bị thương... Kể từ  đó, ngày 28/12 hằng năm trở thành ngày "giỗ trận" của làng
Ông Dương Ðức Liêm, 73 tuổi, nguyên là chiến sĩ dân quân thôn Ninh Kiều xúc động nhớ lại: Ðầu tháng 12/1972, thôn ông được cấp trên về phổ biến tình hình, có nhiều khả năng giặc Mỹ sẽ dùng máy bay B.52 ném bom vào Hà Nội, trong đó sân bay quân sự Ða Phúc (nay là Sân bay Quốc tế Nội Bài), trận địa tên lửa đồi Thanh Nhàn (xã Thanh Xuân) và cầu Xây trên quốc lộ 2 (sát thôn Ninh Kiều) sẽ là những mục tiêu đánh phá ác liệt của địch. Ngay sau đó, với tinh thần cảnh giác cao, chỉ trong vòng một ngày, đêm, nhân dân trong thôn đã tham gia đào đắp được 80 chiếc hầm kèo chữ A và hàng trăm hố cá nhân ở ngoài đồng. Tối đến, trừ lực lượng dân quân, thanh niên tham gia trực chiến, bảo vệ làng, còn lại người già và trẻ em đều phải sơ tán ra ngoài đồng để bảo vệ an toàn tính mạng.
22 giờ, ngày 28/12/1972, trên bầu trời bỗng xuất hiện chiếc máy bay trinh sát SR - 71 của Mỹ từ hướng Tam Ðảo bay vào. Lúc này, hầu hết người dân trong thôn đã sơ tán ra đồng. Khoảng 20 phút sau, trên không trung có tiếng động cơ ầm ầm rền vang như sấm, theo kinh nghiệm chiến trường, ông Liêm biết đó là tiếng máy bay B.52. Ông chỉ kịp hô mọi người xuống hầm. Ngay sau đó, một loạt bom nổ rất gần làm rung chuyển mặt đất. Sau loạt bom đầu tiên, mở nắp hầm quan sát, ông Liêm sững sờ, khi toàn bộ nhà cửa của nhân dân đã bị bom  giặc san phẳng. Thôn Ninh Kiều bỗng chốc trở thành bãi hoang tàn đổ nát, ngôi chùa Thanh Am làm bằng cột đá xanh khoảng 400 năm tuổi, giờ đây chỉ còn sót lại quả chuông trên thân ghi "Nhị Long gia niên - Quý Hợi 1803" (được đúc dưới thời Tây Sơn - niên hiệu Cảnh Thịnh), năm cây cổ thụ có đường kính từ hàng mét cũng bị bom Mỹ cắt cụt...
Không dừng lại ở đó, loạt bom thứ hai với mức độ công phá khủng khiếp hơn. Tất cả các công trình kiên cố nhất được xây bằng vôi trộn mật như: đình, chùa, cổng tiền, cổng hậu của thôn đều bị bom khoan lật xới lên từ đáy móng. Tiếp theo là loạt bom thứ ba giết hại nhiều dân lành. Chỉ trong khoảnh khắc 30 phút, đế quốc Mỹ đã trút xuống thôn Ninh Kiều 200 quả bom tấn, cùng hơn 2.000 quả bom bi các loại, giết hại và làm bị thương hàng trăm người. Toàn bộ nhà cửa, tài sản, hoa màu của nhân dân đều bị phá hủy, nhiều gia đình bị tổn thất nặng nề, có gia đình 13 người chết. Ông Bùi Nguyên Hồng, Chi hội trưởng Người cao tuổi thôn Ninh Kiều, nghẹn ngào xúc động: "Vợ tôi là Dương Thị Miều, đã bị mảnh bom Mỹ găm trúng đầu, chết ngay dưới hầm trong lúc vẫn còn ôm chặt đứa con trai đầu lòng (cháu Bùi Văn Hà) mới được một tuổi". Sau khi đào bới, tìm kiếm, thôn Ninh Kiều đã đưa toàn bộ 42 thi thể về tập trung tại gốc cây đề Ninh Nội để làm lễ truy điệu và chính nơi đây, nhân dân đã dựng lên cột bia căm thù để tưởng nhớ những người dân Ninh Kiều bị bom Mỹ giết hại vào ngày 28/12/1972.
Hơn 40 năm đã trôi qua, kể từ ngày giặc Mỹ dùng máy bay B.52 ném bom rải thảm vào Hà Nội. Hôm nay mới có dịp trở lại "làng giỗ trận", trong lòng mỗi chúng tôi không khỏi bồi hồi xúc động trước sự đổi thay của thôn Ninh Kiều. 100% số đường làng, ngõ xóm được trải bê-tông, 100% số nhà dân được ngói hóa, trong đó có hơn 60% số hộ xây nhà cao tầng kiên cố; hơn 70% số gia đình có người đi làm ở các khu công nghiệp; đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Không giấu nổi niềm vui, chị Ðỗ Thị Minh Nam, giáo viên lớp 4C, Trường tiểu học xã Tân Dân, người thôn Ninh Kiều nói: “Ninh Kiều vốn là đất hiếu học, 100% số cháu ở độ tuổi đều được cắp sách tới trường, mỗi năm trong thôn có từ ba đến bốn cháu thi đỗ đại học”.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu chúng tôi được biết, người dân nơi đây vẫn có những băn khoăn, trăn trở. Ðồng chí Bùi Văn Tưởng, Bí thư Chi bộ thôn Ninh Kiều tâm sự: Ðiều quan tâm nhất hiện nay là, trong tiến trình xây dựng nông thôn mới, cùng với việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, thôn Ninh Kiều còn phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của một ngôi làng Việt cổ 400 năm tuổi. Trước mắt, đề nghị trên đầu tư  và giúp địa phương khôi phục một số công trình văn hóa tâm linh đã bị bom Mỹ phá hủy nhằm góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ người dân trong thôn. Hiện nay, người dân thôn Ninh Kiều đang hoang mang lo lắng, vì trong mấy năm trở lại đây, số người chết trẻ do căn bệnh ung thư ngày càng gia tăng (toàn thôn có hơn 20 trường hợp). Cụ Bùi Thị Lười, 106 tuổi, mẹ liệt sĩ ở thôn Ninh Kiều, tuy tuổi đã cao nhưng cụ còn rất minh mẫn nói với chúng tôi: "Ðề nghị cơ quan chức năng về kiểm tra môi trường nguồn nước, tìm rõ nguyên nhân xem có phải là do ảnh hưởng của bom Mỹ hay không, chứ cứ để tình trạng "Lá xanh rụng trước, lá vàng rụng sau" như thế này thì khổ tâm lắm!".
Từ "tọa độ chết" - Ninh Kiều hôm nay đã hồi sinh. Song, sự phát triển an sinh xã hội ở Ninh Kiều hôm nay không thể không nói tới việc giải quyết một cách tích cực và triệt để những hậu quả sau chiến tranh.
                                                          Quỳnh Giang
                              (Bài đăng trên Báo Nhân dân, ngày 04/12/2012)
 
CUỘC GẶP GỠ BẤT NGỜ ĐẦY DUYÊN NỢ...
 (Viết về chiến sĩ bị địch bắt, tù đày Tống Trần Hội,
thị trấn Sóc Sơn với người Mỹ Thomas)
 
             Ký ức một thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước dẫu đã lùi xa hơn nửa thế kỷ bỗng chốc hiện ra tươi rói trên gương mặt rạng rỡ với giọng nói hào sảng của người thương binh già, có lẽ đây cũng là nét đặc trưng của những người chiến sĩ cách mạng kiên trung bất khuất.  
           Đến thăm ông vào một chiều cuối thu, trong căn nhà nhỏ đơn sơ nơi phố huyện (tổ 9, thị trấn Sóc Sơn, huyện Sóc Sơn - Hà Nội). Ông là Tống Trần Hội - Một thương binh nặng, tóc đã bạc màu vì thời gian và những cơn đau do tàn dư của chiến tranh để lại…
           Bên tách trà ấm nóng mời chúng tôi, ông Hội trầm ngâm kể: Nhân kỷ niệm 72 năm ngày Thương binh liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2018), tình cờ, đúng hơn là rất bất ngờ khi ông gặp Thomas - Con trai viên phi công Mỹ bị ta bắn rơi và bắt giam tại nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội (1968-1973) trong chuyến đi thăm quan cùng Ban liên lạc Chiến sĩ tù đày (CSTĐ) huyện Sóc Sơn được tổ chức tại Di tích lịch sử Hỏa Lò, Hà Nội. Cuộc gặp gỡ như một cơ duyên đầy xúc động sau hơn nửa thế kỷ. Trong không khí chân tình, cởi mở, không mang tư tưởng hận thù - ông (Tống Trần Hội) và Thomas đã trao đổi với nhau về những câu chuyện trong chiến tranh, về những đau thương mất mát của cả hai dân tộc Việt Nam - Hoa Kỳ, và cảm xúc mạnh mẽ về hai tù nhân ở hai đầu chiến tuyến bị giam giữ cùng một thời điểm với hai cách đối xử hoàn toàn trái ngược nhau giữa viên phi công Mỹ Walter Eugene Wilber (cha của Thomas) luôn được Chính phủ Việt Nam đối xử khoan hồng và nhân đạo chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh thế giới và người lính tù, chiến sĩ cách mạng Tống Trần Hội đã bị ngược đãi một cách tàn bạo, phi nhân tính còn hơn cả Hítler. Từ cuộc gặp gỡ cơ duyên này, tất cả những ký ức về một thời “hoa lửa” lại ùa về trong ông và dần dần hiện lên rõ nét…
Hơn 50 năm đã trôi qua, nhưng người lính trinh sát Tống Trần Hội vẫn chưa quên được sự tàn khốc của chiến tranh, của những tội ác tày trời mà kẻ xâm lược đã gây ra. Ông nói rằng: “Để đất nước có được như ngày hôm nay thì dân tộc Việt Nam ta đã phải trả giá bằng biết bao nước mắt và xương máu của hàng triệu người dân nước Việt, trong đó có ông”.       
 Sinh năm 1948 tại thôn Giếng Thị, xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh - Một vùng quê nghèo nhưng giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Năm 1965, khi còn là một chàng thanh niên trẻ có biết bao ước mơ hoài bão...  Song, ông quyết tâm xung phong lên đường nhập ngũ. Thời gian đầu, ông được biên chế vào Đại đội 7, Tiểu đoàn 27 (tăng cường) thuộc Quân khu 4. Sau 19 ngày huấn luyện, ông và đồng đội vượt Trường Sơn để tham gia chiến đấu trận đầu trên đất bạn Lào. Có một kỷ niệm ông còn nhớ như in đó là đêm mùng 7 rạng ngày 08/11/1965, đơn vị ông nhận nhiệm vụ tập kích quân địch ở bản Kapa, xã Hinbun, huyện Khuamuon để mở đường mòn Hồ Chí Minh (trận đánh vô cùng ý nghĩa với lịch sử về con đường huyền thoại sau này). Lúc đó, là chiến sĩ mới, tuổi đời còn rất trẻ, với tấm lòng yêu nước muốn cống hiến thật nhiều cho Tổ quốc nhưng ông còn chưa có chút kinh nghiệm trận mạc - như con nai rừng ngơ ngác, bởi mới chỉ được huấn luyện 19 ngày nên lúc đó trong đầu ông vẫn chưa có khái niệm chiến đấu là như thế nào. Ấy vậy mà trong thời khắc sinh tử giữa nơi chiến trận, khi phải đánh giáp lá cà với quân địch, khi nghe tiếng súng nổ ầm vang... nhất là khi được chứng kiến đồng đội bị thương và ngã xuống bên mình, thì ý chí căm thù và lòng dũng cảm quyết xông lên tiêu diệt quân thù như một bản năng của chàng trai xứ Nghệ. Sau trận đầu, tân binh Tống Trần Hội được cấp trên biểu dương khen thưởng vì có tinh thần chiến đấu kiên cường, gan dạ, bất chấp hiểm nguy, dám đối đầu với kẻ địch…
            Năm 1966, ông cùng đơn vị quay lại Nam Trung Bộ chiến đấu tại Gio Linh, Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Một kỷ niệm khó quên mà giờ đây thỉnh thoảng trong giấc mơ ông vẫn gặp lại. Đó là vào ngày 16/6/1967, ông cùng 5 chiến sỹ  được giao nhiệm vụ vào làng Cam Vụ, xã Cẩm Thủy, huyện Cam Lộ (Quảng Trị) để bám nắm quân địch, sau khi biết rõ được quân số, biên chế trang bị của 1 tiểu đoàn địch, ông được giao nhiệm vụ quay trở lại hậu cứ để báo cáo tình hình và đề nghị cấp trên kéo pháo vào tiêu diệt gọn tiểu đoàn địch này. Trên đường đi, không may ông bị vấp phải mìn và bị thương ở chân, dù đau đớn thấu xương nhưng Tống Trần Hội vẫn cố gắng kéo súng lết về hậu cứ. Trong lúc bị ngất xỉu vì vết thương máu ra nhiều, ông đã bị quân địch phát hiện và kéo lên trực thăng đưa về căn cứ Mỹ. Sau đó, ông được một tên lính Mỹ cao to, mặt mũi đỏ gay như gà chọi, tay đầy lông lá tra hỏi: 
- Lính Mỹ: Anh vào vùng này với mục đích gì?
- Tống Trần Hội: (Trần Hội) Đi lấy gạo.
- Lính Mỹ: Lấy gạo ở đâu?
- Trần Hội: Sân bay Đông Hà.
- Lính Mỹ: Vấp phải mìn của ai?
- Trần Hội: Không biết!
- Lính Mỹ (quay ngoắt thái độ): Không đúng! Mày là lính Bắc Việt đến vùng này nên chắc chắn phải có người che chở, nuôi nấng, bảo vệ. Cho tao biết nó là ai, ở đâu?
- Trần Hội: Tôi không biết ai cả!
            Ngừng giây lát, ông xúc động kể tiếp: “Khi địch bắt, chúng tìm mọi cách khai thác xem vị trí đóng quân của đơn vị tôi ở đâu và những người nuôi dưỡng che chở cho tôi và đồng đội hoạt động ngay trong lòng địch là ai? Nhưng khi không thực hiện được ý định, chúng hành hạ tra tấn tôi, chúng dọa cắt hết gân, cơ và tháo xương mác của hai chân để suốt đời tôi chỉ có thể kéo lết trên đường”. Cho nên hơn nửa thế kỷ qua, tôi chỉ đi bằng hai xương chày (vừa nói ông Hội vừa chỉ vào hai chân của mình)… 
           Sau những nỗ lực khai thác đều bị thất bại, bọn Mỹ chỉ nhận được câu trả lời từ người chiến sĩ cách mạng kiên trung bất khuất Tống Trần Hội bằng hai từ: “Không biết!”. Chúng thay đổi chiến thuật bằng cách chuyển ông ra Đà Nẵng và tiếp tục với những hình thức tra tấn cực kỳ dã man, tàn bạo: Chúng bóp cổ ông, dùng trỏ tay đánh liên tiếp vào ngực, dùng gậy sắt có quấn giẻ ở đầu đánh vào các khớp xương vai, cổ, đầu gối, rồi dùng dao tùng xẻo từng thớ thịt trên bắp chân, bẻ xương mác ở hai cẳng chân… đó là tất cả những tội ác man rợ mà  “trời không dung, đất không tha” cho những tên lính Mỹ xâm lược sẽ không bao giờ gột rửa được.
            Sau nhiều lần tra tấn bất thành, chúng đã chuyển ông vào viện để chữa trị với mục đích chờ ông tỉnh lại để tiếp tục khai thác và tra tấn. Đến tháng 10 chúng đưa ông vào bệnh viện hậu cứ của quân đội Mỹ. Ngày 08/4/1968 chúng lại đưa ông vào khu A của nhà tù Biên Hòa. Tại đây, vào thời điểm này các chiến sĩ tù đầy đang chuẩn bị kế hoạch tổng công kích nhằm tiêu diệt bọn chiêu hồi. Khi ấy ông đang bị thương nặng không thể trực tiếp tham gia chiến đấu cùng đồng đội trong tù nhưng ông đã khích lệ tinh thần, chí khí đấu tranh bất khuất của các chiến sỹ cách mạng bị tù đầy không khuất phục kẻ thù.
Tháng 4/1971 chúng lại chuyển ông ra nhà tù Phú Quốc (nơi chuyên giam giữ các tù nhân tàn phế). Tại đây ông cùng đồng đội vẫn âm thầm tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, vẽ tranh, sáng tác văn thơ... nhằm ca ngợi lòng tự hào dân tộc, tinh thần kiên trung bất khuất không chùn bước trước kẻ thù của người chiến sĩ cách mạng, đồng thời đả kích những hành động vô nhân đạo của bọn Mỹ, Ngụy đối với tù nhân.
  Năm 1973, ông được trao trả trở về sau Hiệp định Paris. Ba năm bị tù đày, không biết bao nhiêu trận đòn tàn khốc, dã man của kẻ thù trực tiếp giáng vào ông cũng như đồng đội của ông. Ông kể: “Tôi ở phân khu D9 nhà tù Phú Quốc, chuyện bị địch đày đọa, hành hạ là thường xuyên. Chỉ trong thời gian ngắn, đã có hàng mấy nghìn bạn tù bị địch đánh chết. Không ngày nào chúng không đánh đập, đồng chí, đồng đội của tôi. Điều mà tôi nhớ mãi, có lẽ đến những ngày cuối đời cũng không quên được đó là những lần chuyển tù, đi từ nhà tù này đến nhà tù khác. Khi bắt đầu đến nhà tù mới thì ngay tại sân, cổng nhà tù, quân địch đánh trận đòn phủ đầu. Hàng trăm tên lính quân cảnh, an ninh lao vào đánh đập anh em chúng tôi. Nhưng chúng tôi luôn nhắc nhở nhau, phải kiên quyết giữ vững ý chí, học tập tấm gương của những đàn anh chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày trước đây. Những cái đầu không bao giờ biết cúi, không bao giờ biết khuất phục. Cho nên, khi mà chúng tôi còn sống thì phải ngẩng cao đầu lên nhìn thẳng vào mặt kẻ thù. Đó là điều mà quân địch rất sợ hãi và cũng rất căm ghét những người chiến sĩ cách mạng. Chúng tôi luôn sẵn sàng ứng phó với kẻ địch, không bao giờ chịu cúi đầu, khuất phục. Địch đánh phun máu, đánh gẫy chân, gẫy tay, xẻo thịt khiến chúng tôi đau đớn quằn quại nhưng “những cặp mắt mang hình viên đạn” của chúng tôi vẫn nhìn trân trân vào kẻ thù, khiến chúng phải khiếp sợ, nhiều tên đi giật lùi không dám đánh anh em tù nhân nữa”.
          Nhấp ngụm trà, ông cười hiền từ bảo: “Bây giờ ngồi nghĩ lại, nói thật là tôi cũng thấy ghê sợ. Là con người bằng xương bằng thịt hẳn hoi, ai cũng có những giây phút yếu lòng”. Tuy nhiên, lúc đó là thời tuổi trẻ, cái tinh thần chiến đấu nó dâng cao lắm, hầu như các chiến sĩ cách mạng, ai cũng là người dũng cảm, gan dạ, ai cũng kiên cường bất khuất. Lúc đó chúng tôi sống bằng tinh thần, bằng ý chí quả cảm, bằng nghị lực phi thường của chính nghĩa. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ đến điều duy nhất đó là mình cần phải quên đi tất cả đau đớn để bảo vệ đơn vị, đồng chí, đồng đội cùng chiến đấu và chia ngọt sẻ bùi với mình. Bởi thế cho nên khi sa vào tay giặc, suy nghĩ  đầu tiên của tôi và đồng đội là phải bảo vệ an toàn tuyệt đối cho đơn vị, cho anh em mình.           
Sau chiến tranh, ông Tống Trần Hội được về an dưỡng tại khu điều dưỡng thương binh Chí Linh, Hải Dương. Do hoàn cảnh tù đày mà ông Hội đã có thêm được nhiều người thân quen, trong đó có các bạn tù chí cốt quê ở hai huyện Đa Phúc - Kim Anh, Vĩnh Phúc (nay là Sóc Sơn - Hà Nội) - đây cũng là cơ duyên để cuộc đời ông gắn bó với mảnh đất Sóc Sơn. Tháng 8/1990 ông chính thức chuyển về Sóc Sơn sinh sống cùng gia đình vợ con và được chính quyền địa phương quan tâm cấp đất nghĩa tình và ở nhà tình nghĩa.
* * * *
          Hai tháng sau cuộc gặp gỡ đầy nhân duyên ấy, Tống Trần Hội thật bất ngờ khi nhận được bức thư từ Hoa Kỳ gửi về Sóc Sơn, người gửi lại chính là Thomas - con trai của viên phi công Mỹ Walter Eugene Wilber bị bắt và giam giữ tại Hỏa Lò cách đây hơn mửa thế kỷ. Bức thư viết bằng tiếng Anh và có dịch sang tiếng Việt nội dung tóm tắt như sau: 
                                                         Hà Nội, ngày 01 tháng 10 năm 2018
Kính gửi ông Tống Trần Hội!
Tôi viết thư này xin được bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc khi được gặp ông ngày 20/7/2018 vừa qua tại Di tích Nhà tù Hỏa Lò.
         Từ năm 1968 đến 1973 ông đã phải chịu tra tấn dã man của kẻ thù tại nhà tù Phú Quốc. Trong đó cha tôi - Ông Walt lại có những trải nghiệm nhân đạo nhận được từ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi ông bị giam tại nhà tù Hỏa Lò.
          Sự khác biệt trong đối xử tù binh giữa ông và cha tôi khác biệt hoàn toàn. Do vậy tôi rất biết ơn những gì mà đất nước Việt Nam đã dành sự nhân đạo cho cha tôi trong quãng thời gian ông bị giam tại Hà Nội. Chính điều này đã khiến tất cả chúng tôi, những người Mỹ đánh giá cao và cảm nhận được giá trị nhân văn của người Việt Nam. Và tôi lại càng cảm thấy hổ thẹn và buồn khi nghĩ đến sự đối xử vô nhân đạo của Chính phủ Mỹ khi xâm lược Việt Nam. Những gì mà ông đã trải qua và phải chịu đựng là vô lương tâm nhưng đó chính là giá trị của con người ông. Ông đã kiên cường sống, chiến đấu và thể hiện ý chí cách mạng của mỗi người lính Việt Nam. Điều đó đã gieo hạt mầm cho độc lập, tự do của Việt Nam hôm nay.
          Được gặp ông khiến tôi nhớ đến tinh thần chiến đấu của nhân dân Việt Nam, một lần nữa khẳng định lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do” trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
          Thưa ông, được gặp ông sẽ mãi là dấu ấn trong cuộc đời tôi.
          Kính chúc ông và gia đình nhiều sức khỏe, hòa bình và hạnh phúc
          Với tất cả lòng kính trọng, kính thư Thomas Eugen Wilber.
                                                                Ký tên: Thomas Eugen Wilber.
   Chiến tranh đi qua, kẻ thắng, người bại đều trở về nhà. Nhưng cuộc chiến không kết thúc vào lúc ngừng tiếng súng, nó vẫn còn tiếp diễn với nhiều người, đặc biệt là những người lính trở về từ chiến trường - như ông Water Eugene Wilber là một điển hình. Nỗi ám ảnh về những nghịch cảnh bạo tàn của quá khứ như bóng ma cứ đeo đuổi mãi. Nhiều người Mỹ trở về từ cuộc chiến đã mãi kẹt lại ở quá khứ, với những day dứt, ân hận, ám ảnh. Đó là những chấn động lớn về tâm lý và tình cảm của người Mỹ nói chung và các Cựu chiến binh Mỹ nói riêng. Đó là cái giá quá đắt mà nước Mỹ phải trả cho cuộc chiến “định mệnh” của họ ở Việt Nam. Bức thư của ông Thomas Eugene Wilber có rất nhiều ý nghĩa và có lẽ cũng phần nào làm ông nguôi ngoai đi về những day dứt trong lòng qua suốt nhiều năm tháng, họ đánh giá cao và rất biết ơn tinh thần nhân văn, nhân đạo của người Việt Nam.
     Hơn nửa thế kỷ trôi qua, những nỗi đau thương của người Việt cũng phần nào được xoa dịu, tuy nhiên trong sâu thẳm tâm hồn những ký ức về một thời chiến tranh vẫn còn đó, không hề phai nhạt đối với những người chiến sĩ cách mạng quả cảm năm xưa. Năm tháng ấy, chiến trường ấy, họ đã hi sinh quên mình cho Tổ quốc, trước những sự tra tấn dã man, trước những sự đày đọa về thể xác cũng như tinh thần đến tàn tật, nhưng họ vẫn kiên trung bất khuất trước kẻ thù, vì đồng đội bên cạnh, vì gia đình nơi hậu phương và vì tiếng gọi giải phóng của dân tộc. Họ chỉ có một khát khao duy nhất là đánh đuổi giặc về nước, đất nước được hòa bình và chấm dứt chiến tranh, đó là những người lính, người con của dân tộc. Viết về họ sẽ không bao giờ hết, cũng như kể về tội ác của chiến tranh cũng không bút nào tả xiết. Nhưng đó chính là những bài học lịch sử, những giá trị trường tồn mãi cùng thời gian mà con cháu chúng ta, những thế hệ đi sau nhìn vào đó để có quyền tự hào và quyết tâm gìn giữ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là truyền thống giàu lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam anh hùng.
  Bức thư của Thomas Eugene Wilber cũng là nguyện vọng chung của nhân dân hai nước có được cuộc sống hòa bình. Và sự hóa giải hận thù trong chiến tranh giờ đây đã  được hai Chính phủ Việt Nam - Hoa Kỳ mong muốn xây đắp quan hệ hữu nghị, hợp tác đã và đang thúc đẩy hai nước vượt qua một chương buồn trong lịch sử để bước về phía trước. Gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng và hướng tới tương lai.
Cảm ơn ông Tống Trần Hội và cảm ơn tất cả những cha anh đã ngã xuống vì nền độc lập tư do của dân tộc để quê hương đất nước phát triển và tươi đẹp như ngày hôm nay.                                                               
                                                                                                                                                              Trần Thu Hà
 
 
 
NGƯỜI LÍNH KHÔNG QUÂN HÀM
(Viết về ông Nguyễn Văn Kết, xã Bắc Sơn,
nguyên Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Phong thổ, tỉnh Lai Châu,
trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc - tháng 2/1979)
  Khi đã nói về cuộc chiến tranh, đâu chỉ có lực lượng trực tiếp cầm súng chiến đấu ở ngoài mặt trận. Bên cạnh họ, còn có những con người, những câu chuyện thật cảm động đã góp phần vào chiến công chung của dân tộc.
  Tại buổi gặp mặt đồng đội chiến đấu 6 tỉnh biên giới phía Bắc, nhân kỉ niệm 40 năm chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (17/02/979 - 17/02/2019) do Tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam phối hợp với nhóm Cựu chiến binh (CCB)“Trái tim người lính”tổ chức tại Hà Nội. Bất ngờ xuất hiện một nhân vật “lạ” đã gây sự chủ ý và thu hút của đông đảo giới Truyền thông - Báo chí. Đó là ông Nguyễn Văn Kết - “người lính không quân hàm”, nguyên cán bộ lãnh đạo chủ chốt huyện Sóc Sơn - TP Hà Nội, một trong số cán bộ được Trung ương lựa chọn, điều động tăng cường lên biên giới Phong Thổ (Lai Châu) ngay từ những ngày đầu cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (tháng 02/1979).
  1. Ngày 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Non sông thu về một mối. Đất nước giành độc lập, thống nhất, nhưng trên thân mình mang đầy thương tích bởi hậu quả chiến tranh; hàng triệu người chết, bị thương và chịu ảnh hưởng lâu dài của các di chứng chiến tranh, hàng ngàn thành phố, làng mạc bị tàn phá, nhiều cầu cống, đường sá,  công trình bị phá hủy... Người dân Việt Nam, không có nguyện vọng nào hơn là xếp vũ khí lại, bắt tay xây dựng cuộc sống mới từ trong đổ nát của chiến tranh, để khôi phục đất nước, hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Hòa chung dòng chảy ấy, vào thời điểm này, hai huyện Kim Anh và Đa Phúc, tỉnh Vĩnh Phú được sáp nhập thành huyện Sóc Sơn, trực thuộc thành phố Hà Nội. Trong bối cảnh nhân dân ta chưa được hưởng trọn vẹn cuộc sống thanh bình thì các thế lực thù địch dã tâm rình rập gây chiến ở hai đầu đất nước.
  Trước tình hình diễn biến ngày càng phức tạp; lường định về cuộc chiến tranh có thể xảy ra. Cuối năm 1978, Trung ương Đảng, Chính phủ khẩn trương tăng cường xây dựng lực lượng, củng cố tuyến phòng thù biên giới, trong đó có việc điều động hàng trăm cán bộ chủ chốt ở các địa phương dưới xuôi nhằm tăng cường sức mạnh lãnh đạo cho các tỉnh biên giới phía Bắc. Huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội vinh dự được trên lựa chọn đồng chí Nguyễn Văn Kết, Phó Bí thư Thường trực, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp huỵện. Trong giờ phút thiêng liêng nhận quyết định, tại buổi chia tay với  Ban lãnh đạo huyện nhà, ông Kết rưng rưng xúc động, giọng nói hào hùng như lời Tuyên thệ: “Quốc gia hữu sự, yêu cầu đến cán bộ chủ chốt cấp huyện, tôi xin sẵn sàng nhận lệnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao!”.
  Ngày đầu nhận nhiệm vụ trên cương vị mới: Phó bí thư Thường trực Huyện ủy, kiêm Phó Chính ủy mặt trận thống nhất, Trưởng ban bảo vệ an ninh biên giới huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Việc làm đầu tiên của người cán bộ tăng cường Nguyễn Văn Kết là tìm hiểu kỹ địa hình, nắm chắc tình hình dân cư, an ninh chính trị trong địa bàn huyện, nhất là phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc: Hà Nhì, Mông, Dao...
Vốn có đôi chút nghiệp vụ đồ bản, như một cán bộ Tác chiến quân đội, Nguyễn Văn Kết tranh thủ phác họa ngay tấm bản đồ hành chính huyện Phong Thổ, trong đó đặc biệt lưu ý đánh dấu, ghi rõ các xã có chung đường biên giới với Trung Quốc, các tuyến quốc lộ, huyện lộ, đường liên xã, các cao điểm có lợi thế về mặt quân sự, những nơi địa hình hiểm trở, các trung tâm giao thương của huyện...  Tấm bản đồ tự vẽ như một cẩm nang thời chiến luôn bên mình người cán bộ tăng cường Nguyễn Văn Kết. Vì thế, khi nhận bàn giao công việc, ông Kết nhanh chóng nhập cuộc và tổ chức chỉ đạo chiến đấu được ngay.
2. Ngày 17/02/1979, hơn 60 vạn quân Trung Quốc với 9 Quân đoàn chủ lực và 32 Sư đoàn bộ binh độc lập, cùng 6 Trung đoàn pháo binh, phòng không, với 2.559 khẩu pháo, trong đó có nhiều dàn phóng hỏa tiễn bất ngờ vượt qua biên giới kéo dài 1.400 km, tấn công 6 tỉnh của Việt Nam gồm: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang); Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu...
Tại mặt trận Lai Châu, giáp Vân Nam (Trung Quốc), từ Sìn Hồ đến Phong Thổ, pháo của địch cấp tập bắn sang ta dữ dội. Với chiến thuật  “biển người”, quân Trung Quốc chia thành hai mũi tiến công. Mũi chủ công tiến vào Ma Ly Pho, Pa Nậm Cúm tới ngã ba Phong Thổ. Mũi thứ hai từ Huổi Luông, Pa Tần (Sìn Hồ). Ngoài ra địch còn sử dụng một lực lượng đánh chiếm khu vực bắc Dào San và Mù San (Phong Thổ). Lúc này các bãi mìn của ta đã chuẩn bị sẵn sàng và đồng loạt phát nổ, nhiều toán địch bị tiêu diệt. Từ các trận địa, chiến hào... súng các loại nhiều tầng, nhiều lớp của ta tập trung bắn vào đội hình địch, khiến bọn chúng không kịp trở tay, chết như ngả rạ...
Tình hình chiến sự diễn ra ngày càng ác liệt, trong lúc này việc bảo đảm an toàn tính mạng cho hàng nghìn người dân ở vùng giáp biên là mục tiêu số 1 của Ban Thường vụ Huyện ủy. Phó bí thư Thường trực, kiêm Phó Chính ủy mặt trận Phong Thổ Nguyễn Văn Kết đề xuất với Ban chỉ huy mặt trận thống nhất thực hiện phương châm “vườn không nhà trống”, khẩn trương tổ chức sơ tán bà con dân bản trong vùng chiến sự đến nơi an toàn. Đồng thời, ông là người trực tiếp chỉ đạo các tổ công tác chính trị của huyện xuống tận các thôn bản làm công tác tư tưởng, tuyên truyền, vận động nhân dân đi sơ tán triệt để. Mặt khác, vừa tổ chức lực lượng tập trung tải đạn, tiếp viện cho bộ đội chủ lực, Công an Vũ trang (nay là bộ đội Biên Phòng) chiến đấu, vừa vận chuyển thương binh đưa về trạm phẫu tiền phương và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ cơ quan huyện trong mọi tình huống.
Lo nhiệm vụ sơ tán cho hàng nghìn người dân đến nơi an toàn, nhưng tình hình chính trị ở địa bàn các xã giáp biên vô cùng phức tạp, lực lượng phản động, thám báo do địch cài cắm ráo riết hoạt động, lúc này toàn huyện đã có 10 thôn bản giáp biên bị thám báo Trung Quốc xâm nhập và gây bạo loạn. Đặc biệt, một số cán bộ chủ chốt được huyện phân công làm cụm trưởng, điển hình là đồng chí: Dương Đình Hồng, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy, chỉ huy tại Dào San (bản trọng điểm, giáp Trung Quốc) bị hy sinh, huyện phải cử đồng chí Nghiêm Xuân Tọa, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy lên thay rồi cũng hy sinh, trên lại phải điều Đại úy Nguyễn Văn Võ trực tiếp chỉ huy Dào San. Tình hình trên, khiến tư tưởng cán bộ và nhân dân không khỏi hoang mang dao động...
Để ổn định tinh hình tư tưởng nhân dân, Phó Chính ủy Nguyễn Văn Kết đề xuất phương án: làm trong sạch địa bản - bảo vệ an ninh biên giới và trực tiếp chỉ huy lực lượng các tổ công tác chính trị của huyện xuống 13 xã giáp biên nắm bắt tình hình, tuyên truyền, vận động, giáo dục để bà con hiểu rõ “Ta - Bạn - Thù”, đồng thời phát động toàn dân tố giác bọn phản động, thám báo do địch cài cắm trong dân.
Khi được hỏi về bài học kinh nghiệm bám dân, bám bản trong công tác xây dựng địa bàn trong sạch vững mạnh, ông Nguyễn Văn Kết trầm ngâm vẻ suy tư khi nghĩ về công tác vận động quần chúng là đồng bào dân tộc thiểu số, nhất lại là đối với thành phần đối tượng đang phải theo dõi. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, đã là cán bộ đảng viên mà dính dáng tới chuyện quan hệ móc nối với phía bên kia thì phải thẳng tay trừng trị, không khoan nhượng. Điều đó, càng làm cho ông phải trăn trở cân nhắc cẩn thận, không thể xem xét một cách phiến diện. như trường hợp của Phó chủ tịch, kiêm Trưởng Công an xã Dì A Ph... là người thân quen họ hàng lâu đời với Trung đoàn trưởng quân đội Trung Quốc sang đánh Việt Nam. Để làm rõ câu chuyện, ông Kết đã trực tiếp đi bộ 50 cây số xuống bản Dào San để nắm tình hình qua tổ công tác và gặp trực tiếp Dì A Ph... anh em trong tổ công tác băn khoăn lo ngại và đề nghị có lực lượng đi cùng, ông Kết gạt đi và nói “Các đồng chí cứ yên tâm, không phải bảo vệ, tôi đi một mình xuống bản đươc”. Khoảng 4 giờ chiều, ông Kết có mặt tại nhà Dì A Ph... trong lúc vợ con anh đi sơ tán, ít phút sau Dì A Ph... vác bó củi to trên nương về, ông Kết đến bên đỡ bó củi và tự giới thiệu về mình, sau đó vui vẻ nhận lời ở lại cùng Dì A Ph... nấu cơm, nhặt rau, bổ củi...
Hơn 3 tiếng đồng hồ, trong bữa ăn, hai người vui vẻ đủ chuyện. Lúc đầu tâm trạng Dì A Ph... rất lo sợ bị ta bắt, nhưng qua tiếp xúc với người cán bộ dưới xuôi, thấy tình cảm chan hòa cởi mở, lại được nghe ông Kết phân tích điều hay lẽ phải, giúp Dì A Ph... nhận thức rõ ‘Ta - Bạn - Thù”  nên anh đã nói hết sự thật về mối quan hệ với ông anh họ Dì ở bên kia biên giới và hứa với cán bộ huyện là luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, không để người thân họ hàng bên kia lôi kéo, mua chuộc.
Sau cuộc gặp gỡ giữa ông Kết và Dì A Ph..., Thường trực Huyện ủy Phong Thổ kết luận, Phó Chủ tịch, kiêm Trưởng Công an xã Dì A Ph... không phản động, đề nghị tỉnh xem xét, bố trí công việc phù hợp.
Không riêng Dì A Ph..., Trưởng ban bảo vệ an ninh biên giới Nguyễn Văn Kết thường xuyên gần gũi, tiếp xúc với bà con các dân tộc Hà Nhì, Mông, Dao trên địa bàn huyện, vì thế nhân dân luôn coi ông như người anh em của dân tộc mình.
Nhờ có phong trào cách mạng toàn dân bảo vệ an ninh biên giới, nên chỉ trong thời gian ngắn, với sự chỉ đạo trực tiếp của Phó Chính ủy, Trưởng Ban bảo vệ An ninh biên giới Nguyễn Văn Kết, trên địa bàn huyện Phong Thổ, trọng điểm là các xã giáp biên đã phát hiện được 47 vụ, bắt gần 100 thám báo, biệt kích, góp phần làm trong sạch địa bàn, tạo điều kiện để xây dựng tuyến phòng thủ trên địa bàn biên giới Phong Thổ.
Ngay sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân (05/3/1979), thực hiện chủ trương của trên, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, Trưởng ban bảo vệ An ninh biên giới Nguyễn Văn Kết lại được nhận trọng trách, trực tiếp chỉ huy chiến dịch rào 42 cây số đường biên nhằm ngăn chặn sự lấn chiếm của địch. Đồng thời chăm lo củng cố, xây dựng tổ chức Đảng từ cơ sở đến huyện đạt trong sạch vững mạnh, góp phần đưa huyện Phong Thổ từ đói nghèo, khó khăn, phức tạp...trở thành huyện khá của tỉnh. Đặc biệt, huyện Phong Thổ được trên lựa chọn là đơn vị điển hình trong 22 huyện biên giới cả nước tổ chức Đại hội mừng công bắt thám báo, biệt kích, được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.
Cuối năm 1980, vào dịp chuẩn bị đón xuân Canh Thân, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã cử Trung tướng Nguyễn Nam Khánh, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam đem lẵng hoa lên tặng cán bộ, chiến sỹ và nhân dân các dân tộc huyện Phong Thổ vì đã có thành tích chiến đấu, bảo vệ an ninh biên giới, xây dựng địa bàn trong sạch vững mạnh. Riêng Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Nguyễn Văn Kết đã hai lần được đi báo cáo điển hình tại các hội nghị tổng kết quân sự do Bộ Tư lệnh Quân khu 2 và Bộ Quốc phòng tổ chức, đã góp phần vào thành tích chung của huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Trọng Phúc
 
 
 
 
 
 
 
 
MỤC LỤC
Cuốn “Chuyện thư thời chiến Sóc Sơn”
***
 
STT Tên bài Trang
1. Theo dấu chân Phù Đổng 3
2. Chuyện thời chiến quê hương Thánh Gióng và khát vọng hoà bình của tuổi trẻ Sóc Sơn 5
3. Hai lần… chết 8
4. Chúng ta là đảng viên 11
5. Niềm mơ ước lớn 14
6. Sự hy sinh thầm lặng 15
7. Những “Nan y… tàn phá” 23
8. Niềm tin chiến thắng 29
9. Nợ người chết… khất nợ người sống 32
10. Đi tìm hình cha 36
11. Em sống trung thành, chết thuỷ chung 40
12. Tình người Kim Anh với sân bay Đa Phúc 45
13. Đêm trên đường Bằng 55
14. Sáu lần tiễn con đi 61
15. Theo dòng nhật ký 64
16. Lính trận A bia 69
17. Bắt giặc lái ở ấp vuông 74
18. Bảy sợi tóc thề 77
19. Người chỉ huy trinh sát “Công trường bảy” can trường, quả cảm 81
20. Tết chiến trường 86
21. Những dòng thư viết vội 90
22. Còn bước được thì còn tìm đồng đội 95
23. Chuyện người thuyền trưởng tàu săn ngầm năm xưa 100
24. Tiểu đoàn mang tên Phù Đổng 105
25. Giá mà không có chiến tranh 110
26. Chuyện “Bí mật” ở sân bay Đa Phúc gần 50 năm trước 115
27. Căn hầm trên vách đá 118
28. Đón em về 123
29. Âm dương ký sự 128
30. Trả ơn cuộc đời 132
31. Quật cường tinh thần Sóc Sơn 134
32. Làng “Giỗ trận” hôm nay 137
33. Cuộc gặp gỡ bất ngờ đầy duyên nợ… 139
34. Người lính không quân hàm 144




 
Tác giả bài viết: admin
Nguồn tin: THPT Xuân Giang
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
bạn đang cần tìm địa chỉ cho thuê thuê máy chủ ảoquần độn mông đúc?